Đề bài: Giới thiệu một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.
Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại
I. Dàn ý Thuyết minhmột lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại (Chuẩn)
1. Mở bài:
– Giới thiệu về một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống:
+ Đó là lễ hội nào?
+ Lễ hội đó diễn ra ở đâu?
2. Thân bài
– Nguồn gốc, lí do tổ chức lễ hội
– Thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội (Thường được tổ chức vào thời gian nào trong năm, địa điểm tổ chức)
– Chuẩn bị:
+ Địa điểm
+ Trang trí
+ Các tiết mục biểu diễn
– Quy trình/diễn biến của lễ hội:
+ Phần lễ
+ Phần hội (Những trò chơi được tổ chức)
– Ý nghĩa của lễ hội:
+ Là nét đẹp văn hóa lâu đời của con người, dân tộc Việt Nam; Thỏa mãn nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ giá trị văn hóa tinh thần.
+ Là sự kiện tưởng nhớ, thể hiện tấm lòng biết ơn của con người với công đức của các vị thần, nhân vật có nhiều đóng góp cho cộng đồng, dân tộc
+ Là dịp con người được trở về với quê hương, cội nguồn,…
3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của lễ hội
II. Bài văn mẫu Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại
1. Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại: Hội Lim
“Ba năm hai cái hội chùa,
Nào ai có lỡ bỏ bùa cho ai.
Già già, trẻ trẻ, gái trai,
Đua nhau ăn mặc, hán hài đi xem.
Hội Lim ai thấy chẳng thèm,
Tổ tôm, bài điếm, giò nem thiếu gì.
Đồn sắp có dệt cửi thi,
Cao lâu trăm thức thiếu gì thức ngon.”
Nếu ai đó có lỡ say mê điệu dân ca Quan họ Bắc Ninh, chắc hẳn chẳng thể nào bỏ lỡ Hội Lim, một lễ hội lớn bậc nhất tỉnh Bắc Ninh, vào dịp đầu xuân, đây được xem là kết tinh của nét đẹp truyền thống vùng đất Kinh Bắc, cái nôi lớn của nhiều truyền thuyết, của những câu chuyện cổ tích, đậm nét truyền thống của nhân dân nước Nam.
Tương truyền Hội Lim là hội chùa làng Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, khi Nguyễn Đình Diễn vốn là quan trấn thủ vùng Kinh Bắc đạt được nhiều công trạng nên được thưởng nhiều tài sản châu báu, ông đã hiến phần tiền này để tu bổ đình chùa, giữ gìn thuần phong mỹ tục đẹp đẽ của quê hương, tiêu biểu nhất là lăng Hồng Vân dựng trước mộ ông và chùa Hồng Ân nơi ông đặt hậu trên núi Lim. Chính vì có nhiều công lao, đóng góp nên sau khi ông mất, nhân dân đã tôn ông thành hậu thần, hậu Phật mà thờ cúng mỗi năm, hội Lim ra đời từ ấy.
Những bài Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hay nhất
Hội Lim bắt đầu từ ngày 12 đến ngày 14 tháng giêng âm lịch hàng năm, trên địa bàn xã Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, càng ngày quy mô của hội càng lớn, thu hút biết bao nhiêu khách khứa từ thập phương về tham quan. Hội Lim là tổng hòa của nét văn hóa nghệ thuật truyền thống đặc sắc xứ Bắc gắn liền với làn dân ca Quan họ Bắc Ninh, trở thành tài sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam, tiêu biểu cho thể loại dân ca trữ tình Bắc Bộ còn được duy trì và phát triển cho đến ngày hôm nay. Như nhiều lễ hội khác, hội cũng gồm hai phần chính là phần lễ và phần hội. Đúng 8 giờ sáng ngày 13, phần lễ được mở màn bằng lễ rước, đoàn người đi rước ăn vận những bộ trang phục truyền thống rất đẹp, màu sắc sặc sỡ, phù hợp với không khí mùa xuân, đoàn rước thường rất đông người có khi kéo dài cả cây số. Các cụ bà thì rước phần lễ, các cô gái thì rước kiệu Bà, còn các trai tráng thì rước binh khí, ngoại lệ còn có cả trẻ con rước ngựa Bạch Mã, đám rước nối đuôi nhau cùng tề tựu về lăng Hồng Vân để làm lễ tế. Khi tế tất cả các hương lão, quan viên, nam đinh các làng xã thuộc tổng Nội Duệ phải có mặt đầy đủ để tiến hành cúng bái hậu thần Nguyễn Đình Diễn. Trong lễ tế có một nghi lễ không thể thiếu hát quan họ thờ hậu thần, các liền anh liền chị đứng thành hàng ở cổng lăng, ăn mặc trang phục quan họ truyền thống, hát vọng vào bên trong, nội dung lời hát chủ yếu là ca ngợi công lao, đức độ của hậu thần Nguyễn Đình Diễn.
Xong phần lễ là đến phần hội, phần hội rất náo nhiệt, cũng là phần vui và hấp dẫn hơn cả, có nhiều các trò chơi dân gian rất vui nhộn thể hiện khí khái anh hùng, tinh thần dân tộc cùng các phong tục truyền thống như: Đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, nấu cơm, dệt cửi,… mỗi một trò đều có nét đặc sắc, hấp dẫn riêng, tạo nên bầu không khí náo nhiệt sôi nổi đầu xuân mới. Nhưng có lẽ đặc trưng và đặc sắc nhất của phần hội phải kể đến phần hát hội – cốt lõi căn bản của hội Lim, phân biệt với các lễ hội khác ở miền Bắc. Có nhiều kiểu hát nào là hát mời trầu, hát gọi đò đến lối hát có cái tên rất đặc biệt như con sáo sang sông hay con nhện giăng mùng. Phần thi hát bắt đầu từ khoảng tầm trưa, trên một hồ nước nhỏ cạnh làng Lim, chiếc thuyền Rồng được sơn son thiếp vàng từ từ bơi ra giữa hồ trong giọng hát say sưa, ngọt ngào, mầm mại, đậm chất trữ tình Bắc Bộ của các liền anh, liền chị. Những màn hát đối đáp, hát hòa ca, vang vọng cả một vùng đất trời, làm cho hội Lim thêm phần thiêng liêng, đậm đà nghĩa tình văn hóa truyền thống của dân tộc. Những bộ áo váy mớ ba mớ bảy, rực rỡ đầy màu sắc cùng chiếc nón quai thao trắng, mới thật duyên dáng, điệu đà, những bộ áo the khăn xếp mới thật đĩnh đạc làm sao. Nam, nữ bằng những câu hát thân tình, đối đãi với nhau đầy thân tình, lề lối, là nét đẹp văn hóa khiến người ta phải ngưỡng mộ, trầm trồ, bởi qua từng ấy năm tháng lịch sử, nét đẹp ấy vẫn được giữ gìn và phát huy cho đến ngày hôm nay, quả thực không dễ dàng. Đó là cả một sự nỗ lực của nhân dân nơi đây, muốn giữ lại cho quê hương đất nước một nét đẹp của phong tục truyền thống, nhưng không hề lạc lõng so với thời đại, quả thật đáng quý.
Nếu ai chưa một lần ghé về Bắc Ninh nghe làn dân ca Quan họ, tham gia Hội Lim, quả thực là đáng tiếc. Bởi những nét đẹp của lễ hội hòa cùng giai điệu tinh tế truyền thống ấy thực sự đi sâu vào lòng người, khiến tim ta xao xuyến bồi hồi, niệm tưởng lại quá khứ huy hoàng của dân tộc, càng thêm ngưỡng mộ sự điêu luyện, mềm mại trong từng tiếng hát lời ca. Khi có cơ hội, hãy cùng về Bắc Ninh, về với Hội Lim, về với giọng hát quan họ tuyệt vời bạn nhé!
2. Thuyết minh về lễ hội trọi trâu Đồ Sơn
“Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi Trâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Mùng chín tháng tám nhớ về chọi Trâu”
Việt Nam ta là một đất nước có nền văn hiến hơn bốn ngàn năm, với sự phong phú và đa dạng của các thể loại văn hóa, phong tục truyền thống, đặc biệt là các lễ hội dân gian. Mà ở mỗi một địa phương, một vùng miền lại có những kiểu lễ hội khác nhau được tổ chức quanh năm, với nhiều những nét đặc sắc thể hiện những nét tín ngưỡng, ý nghĩa độc đáo. Một trong những lễ hội đáng chú ý phải kể đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống: Trọi trâu
Không rõ lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có từ khi nào, chỉ biết rằng đây là một tập tục, truyền thống có từ rất lâu đời của những người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, tỉnh Hải Phòng được giữ gìn và phát triển cho tới ngày hôm nay. Lễ hội diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm, thu hút sự tham gia của hàng ngàn du khách từ khắp nơi và được xem là một trong những hoạt động văn hóa quan trọng nhất của những người dân nơi đây. Vào năm 2013, xét về những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc và tiêu biểu, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã vinh dự được xếp vào một trong những Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Thuyết minh về lễ hội trọi trâu Đồ Sơn tại đây.
3. Thuyết minh về lễ hội ăn mừng lúa mới ở Tây Nguyên
Lễ hội mừng lúa mới là một trong những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ bao đời nay, dẫu trải qua nhiều thăng trầm biến đổi của đất nước, thế nhưng cả trong thời chiến và thời bình nó vẫn luôn được giữ gìn nguyên vẹn, thiêng liêng không chỉ bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của cả một cộng đồng dân tộc lớn mà đó là những nỗ lực trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhiều đời, là sự đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc anh em.
Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em tất cả, trong đó mỗi dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình chữ S lại có những phong tục tập quán, những nét đẹp truyền thống đặc sắc cho riêng mình, ví như người Kinh nổi tiếng với lễ hội Đền Hùng, lễ hội Thánh Gióng, lễ hội chùa Hương,… thì ở vùng núi phía Bắc các dân tộc ở nơi đây lại đặc biệt với các lễ hội Cầu mưa, lễ hội Hoa Ban, lễ hội Lồng Tồng, hay việc ăn tết Thanh Minh rầm rộ, rộn ràng hơn cả Tết Nguyên Đán,… Còn với các dân tộc Tây Nguyên, một điều chung nhất khi cảm nhận về họ đó chính là hơi thở mạnh mẽ và máu lửa của núi rừng bạt ngàn, đầy nắng và gió, ở đây có lễ hội cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, và khá đặc biệt ấy là lễ hội mừng lúa mới…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiếtThuyết minh về lễ hội ăn mừng lúa mới ở Tây Nguyên tại đây.
4. Thuyết minh về Lễ hội đền Trần
Từ bao đời nay, lễ hội đã trở thành một điểm tựa tinh thần, ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống Việt Nam. Xuân về, trăm hoa đua nở, hòa chung trong bầu không khí căng tràn sức sống là sự xuất hiện của nhiều lễ hội. Nhắc tới lễ hội ngày xuân, không thể không nhắc lễ hội đền Trần – một trong những lễ hội nổi tiếng của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đền Trần gồm lễ khai ấn và lễ hội lớn. Lễ hội đền Trần ngày xuân được nhiều người biết đến cùng với Lễ hội khai ấn đền Trần, là một trong những lễ hội được tổ chức với mục đích tri ân các vị vua Trần. Nguồn gốc ra đời của lễ hội đền Trần gắn liền với lịch sử của đền Trần. Đền Trần tọa lạc ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định, là nơi thờ các vị vua Trần cùng các quan lại phò tá nhà Trần. Đền Trần được xây dựng năm 1965 trên nền Thái Miếu cũ, tuy nhiên đền đã bị phá hủy bởi giặc Minh vào thế kỉ XV. Đền Trần có 3 công trình kiến trúc chính gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Đến năm 1705, đền chính thức gọi là Trần Miếu (miếu nhà Trần).
Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống: lễ hội đền Trần
Lễ khai ấn đền Trần đầu tiên được tổ chức vào năm năm 1239. Đây là nghi lễ triều đại nhà Trần thực hiện tế tiên tổ. Những năm chống giặc Nguyên Mông, nhà Trần thực hiện kế sách “vườn không nhà trống” nên rút toàn bộ quân về Thiên Trường, lễ khai ấn bị gián đoạn tới năm 1262 mới được mở lại…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiếtThuyết minh về Lễ hội đền Trần tại đây.
5. Thuyết minh về lễ hội đua voi ở Tây Nguyên
Tây Nguyên một vùng đất hùng vĩ với những cao nguyên đất đỏ xếp tầng, được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho những cánh rừng xanh thẳm bạt ngàn, những mảnh đất bazan màu mỡ, khí hậu quanh năm ôn hòa. Nơi đây quy tụ nhiều dân tộc anh em cùng nhau sinh sống, những con người thật thà chất phác mang đậm bản sắc của núi rừng cao nguyên.Có thể nói Tây Nguyên là cái nôi của những sử thi huyền thoại, là vùng đất giàu có với những truyền thống văn hóa độc đáo, đậm chất núi rừng linh thiêng. Đua voi là một trong những lễ hội cuốn hút, độc đáo nhất của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lễ hội được tổ chức vào tháng ba âm lịch, cứ hai năm lại có một lần lễ hội như vậy. Người ta chọn mùa xuân là mùa tổ chức lễ hội đua voi nhằm thể hiện mong muốn một khởi đầu năm mới, tốt đẹp, ấm no hạnh phúc cho người dân khắp các thôn bản, tạo nên một không khí tưng bừng, nhộn nhịp, làm say đắm bất kỳ những ai đã từng đặt chân đến nơi đây. Voi là con vật biểu tượng cho núi rừng Tây Nguyên, từ lâu đã được thuần hoá là vật nuôi rất có ích và chung sống thân thiện với con người…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiếtThuyết minh một lễ hội ngày xuân – Lễ hội đền Trầntại đây.
——————–HẾT———————–
Sau khi tìm hiểu xong nội dung bài Giới thiệu một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại, các em học sinh có thể tham khảo thêm:Thuyết minh về một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) yêu thích, Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh của đất nước quê hương,Thuyết minh về một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc một đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình để rèn luyện, củng cố thêm cho kĩ năng viết bài thuyết minh của mình.