Lớp 11

Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

Đề bài: Anh/chị hãyPhân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang để thấy được bút pháp cổ điển và hiện đại trong việc phác họa khung cảnh thiên nhiên của Huy Cận.

phan tich hinh anh thien nhien trong bai tho trang giang 3

Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

I. Dàn ýPhân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Huy Cận, bài thơ Tràng giang và khái quát cảnh thiên nhiên trong bài.

2. Thân bài

a. Khổ đầu: Khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông
– Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” diễn tả cảm hứng sáng tác của bài thơ và dẫn dắt độc giả bước vào không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ.
– Giữa dòng sông rộng lớn mênh mang, từng con sóng gợn lăn tăn, gối đầu lên nhau “điệp điệp” như không dứt.
– Xuôi theo dòng chảy hững hờ là con thuyền nhỏ bé lênh đênh “xuôi mái song song” không phương hướng dường như phó mặc theo ý muốn của đất trời.
– Hình ảnh “thuyền về nước lại” gợi cảm giác xót xa chia lìa, mang theo hơi thở của nỗi sầu thương vây bủa.
– Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” khiến khung cảnh thiên nhiên vốn buồn man mác bỗng trở nên càng ưu sầu.
+ Cành củi khô nhỏ bé nổi trôi, vô định, lẻ loi gấp nhiều lần khi chỉ có một mình giữa những dòng chảy mênh mông, cuộn xoáy.
+ Đây là hình ảnh ẩn dụ hiện đại, tượng trưng cho bao kiếp người nhỏ bé thời đại bấy giờ, nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi trôi dạt giữa dòng sông cuộc đời bao la.

b. Khổ 2: Cảnh thiên nhiên nhiên hoang vắng đến nao lòng
– Từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” cùng biện pháp tu từ nhân hóa đã nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người.
– Vẫn là sông nước mênh mông, vẫn là không gian bao la rộng lớn, nhưng chỉ thưa thớt vài cồn cát, hắt hiu vài ngọn gió lạ.
– Không tìm thấy âm thanh của cuộc sống
– Thiên nhiên vốn bao la, nay càng mênh mang vô định bởi “nắng xuống, trời lên”.
– Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ được đổi ngược lại thành tiểu đối “Sông dài trời rộng kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, khiến người đọc cảm nhận được tận cùng của thiên nhiên hoang vắng và nỗi cô đơn của con người.

c. Khổ 3: Thiên nhiên buồn bã, hiu quạnh
– Trên dòng tràng giang mênh mang sóng nước, một chuyến đò ngang cũng chưa từng xuất hiện.
– Chỉ vài cánh bèo lặng lờ trôi.
– Sự hoang vắng không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn toát lên từ chính tâm hồn thi sĩ.
– Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” kết hợp cùng điệp từ “không” và cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng lên đến cực điểm, đưa độc giả đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng.

d. Khổ cuối: Khung cảnh hùng vĩ, bao la cùng nỗi sầu nhân thế.
– Mây trắng chuyển động thành từng lớp.
– Cánh chim nhỏ nhoi chao nghiêng bay về sau một ngày mệt nhọc.
– Trong bóng hoàng hôn, những hình ảnh ấy tạo nên một khung cảnh buồn vương vấn.
– Nhà thơ chợt nhớ về quê hương, nhớ về cả thời đại. Đây chính là nỗi lòng của cả thế hệ trí thức lúc ấy trước thời cuộc rối ren.

c. Đánh giá nghệ thuật
– 4 khổ thơ 7 chữ ngắn gọn nhưng sử dụng những nét bút tinh tế, khéo léo cùng bút pháp chấm phá đặc sắc, sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ điển.
– Khung cảnh không những thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ mà còn gửi gắm nỗi niềm tâm sự của cả thế hệ trí thức.

3. Kết bài

– Khẳng định giá trị tác phẩm, vị trí trong nền văn học

II. Bài văn mẫuPhân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

1.Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, mẫu số 1 (Chuẩn)

Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi ca, là cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà thơ. Mỗi tác giả lại có một cái nhìn riêng, một phương thức khác biệt để tái hiện cảnh thiên nhiên. Nếu như thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu gây ấn tượng với vẻ đẹp mơn mởn tràn đầy sức sống thì thiên nhiên trong thơ Huy Cận lại gợi lên nhiều nghĩ suy bởi vẻ đẹp buồn man mác. Điều này được thể hiện vô cùng rõ nét qua bức tranh nhiên nhiên trong bài thơ “Tràng giang”. Thiên nhiên “Tràng giang” dưới ngòi bút Huy Cận hiện lên với vẻ đẹp cổ điển xen lẫn hiện đại, đẹp mà quạnh vắng cô liêu, bâng khuâng nỗi sầu.

Gợi mở bức tranh thiên nhiên là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. 7 chữ ngắn gọn vừa diễn tả cảm hứng, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ vừa dẫn dắt độc giả bước vào không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ. Từ đó, hé mở dòng cảm xúc với nỗi nhớ bâng khuâng, sự lạc lõng, hoang mang giữa cảnh thiên nhiên rộng lớn, vô tận của một hồn thơ nhạy cảm, lẻ loi:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Vẫn sử dụng những thi liệu và bút pháp nghệ thuật quen thuộc song Huy Cận lại vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng ấn tượng. Giữa dòng sông rộng lớn mênh mang, vô tận, từng con sóng gợn lăn tăn, gối đầu lên nhau “điệp điệp” như không dứt. Dòng nước lững lờ trôi đi, chậm chạp mà hờ hững, vô định. Xuôi theo nó là con thuyền nhỏ bé lênh đênh “xuôi mái song song” không phương hướng dường như phó mặc theo ý muốn của đất trời.

phan tich hinh anh thien nhien trong bai tho trang giang

Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang để thấy được bức tranh sông nước khi chiều về

Thuyền và nước vốn song song đồng hành với nhau, đến đây lại cách xa đầy buồn tủi. Hình ảnh “thuyền về nước lại” gợi cảm giác xót xa chia lìa, mang theo hơi thở của nỗi sầu thương vây bủa. Kết hợp cùng hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng”, khung cảnh thiên nhiên vốn buồn man mác bỗng trở nên càng ưu sầu. Cành củi khô nhỏ bé nổi trôi, vô định, lẻ loi gấp nhiều lần khi chỉ có một mình giữa những dòng chảy mênh mông, cuộn xoáy. Nó dường nhiều mất đi sức sống, mất đi toàn bộ vẻ tươi xanh, nhỏ nhoi giữa không gian sông nước bao la càng khắc sâu thêm nỗi cô đơn trống vắng trong lòng người. Đồng thời, đây là hình ảnh ẩn dụ hiện đại, tượng trưng cho bao kiếp người nhỏ bé thời đại bấy giờ, nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi trôi dạt giữa dòng sông cuộc đời bao la không tìm thấy bến bờ.

Dòng xúc cảm lặng lẽ chảy trôi, ngòi bút tài hoa của Huy Cận tiếp tục đặc tả cảnh thiên nhiên hoang vắng đến nao lòng:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” được sử dụng khéo léo cùng biện pháp tu từ nhân hóa đã nhấn mạnh tâm trạng buồn thương của con người. Vẫn là sông nước mênh mông, vẫn là không gian bao la rộng lớn, vậy mà chỉ thưa thớt vài cồn cát, hắt hiu vài ngọn gió lạ. Ngay cả âm thanh của cuộc sống “tiếng làng xa vãn chợ chiều” dường như cũng biến mất, không biết “đâu”. Thi sĩ càng cố chạm tay vào hơi thở mong manh của cuộc sống càng thấy lòng mình thêm bâng khuâng, cô độc giữa cảnh thiên nhiên vốn bao la, nay càng mênh mang vô định bởi “nắng xuống, trời lên”.

Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ đến đây đã được đổi ngược lại thành tiểu đối “Sông dài trời rộng. Kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, nó khiến người đọc cảm nhận được tận cùng của thiên nhiên hoang vắng và nỗi cô đơn của con người.

Chưa dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên buồn bã, hiu quạnh vẫn tiếp tục được chấm phá thêm ở khổ thơ tiếp theo:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Trên dòng tràng giang mênh mang sóng nước, một chuyến đò ngang cũng chưa từng xuất hiện, có chăng chỉ là vài cánh bèo lặng lờ trôi. Sự quạnh hiu đến đây đã thấm đượm qua từng cảnh vật. Nó không chỉ là sự hoang vắng của thiên nhiên mà còn là sự cô đơn toát lên từ chính tâm hồn thi sĩ giống như câu thơ “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du). Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” kết hợp cùng điệp từ “không” và cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng lên đến cực điểm, đưa độc giả đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng. Để rồi chỉ có “Bờ xanh tiếp bãi vàng” mênh mông đến hút tầm mắt.

Nét vẽ cuối cùng cho bức tranh ấy là khung cảnh hùng vĩ, bao la cùng nỗi sầu nhân thế bâng khuâng:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Mây trắng chuyển động thành từng lớp. Cánh chim nhỏ nhoi chao nghiêng bay về sau một ngày mệt nhọc. Trong bóng hoàng hôn, những hình ảnh ấy tạo nên một khung cảnh buồn vương vấn. Không gian rộng mở rợn ngợp còn nỗi buồn thì dằng dặc, bất tận. Nhà thơ chợt nhớ về quê hương, nhớ về cả thời đại. Đây chính là nỗi lòng của cả thế hệ trí thức lúc ấy trước thời cuộc rối ren.

Có thể nói, chỉ với 4 khổ thơ 7 chữ ngắn gọn nhưng bằng những nét bút tinh tế, khéo léo cùng bút pháp chấm phá đặc sắc, sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ điển, Huy Cận đã vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên vô cùng rung động: mênh mông vô tận và man mác nỗi buồn. Khung cảnh ấy không những thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ mà còn gửi gắm nỗi niềm tâm sự của cả thế hệ trí thức trong hoàn cảnh đất nước nhiều biến động.

Với những ý nghĩa đó, “Tràng giang” được đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huy Cận. Nỗi “buồn” vô tận kết hợp với nỗi ám ảnh không gian lạ lùng đã ghi dấu ấn mạnh mẽ cho hồn thơ Huy Cận trong phong trào thơ Mới 1932-1945 nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Từ đó đóng góp cho nước nhà một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đáng nâng niu, giữ gìn.

—————HẾT BÀI 1—————–

Chương trình Ngữ văn lớp 11 tập trung rất nhiều tác phẩm hay của văn học Việt Nam, bên cạnh bài thơ Tràng giang các em có thể chuẩn bị, củng cố kiến thức cho các tác phẩm khác qua việc tham khảo:Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng, Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ,Cảm nhận về vẻ đẹp của con người Hàn Mạc Tử qua bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Bình giảng bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh.

2.Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang,mẫu số 2:

Nhắc đến phòng trào Thơ mới không thể không nhắc đến Huy Cận. Tràng giang là một bài thơ được trích trong tập thơ “Lửa thiêng”, nổi tiếng của ông, được viết vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ không chỉ bộc lộ được nỗi tâm trạng u sầu, nỗi buồn mênh mông của lòng người mà còn khắc hoạ hình ảnh thiên nhiên mang nét đẹp đượm buồn.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Giữa dòng sông rộng mênh mông, dài vô tâm ấy, từng con sóng gợn lăn tăn, mênh mang, trùng điệp. Dòng nước cứ thế lững lờ trôi có chút gì đó chậm chạp, hững hờ, vô định. Con thuyền nhỏ bé lênh đênh xuôi theo dòng nước cuốn như một lẽ tự nhiện thuận theo ý muốn đất trời. Chiếc thuyền vẫn xuôi theo từng nhịp, sóng vẫn gợn nhẹ giữa dòng mà sao thấy cảnh vật như tĩnh lặng đứng yên. Dòng sông cứ bao la, mênh mang như thế, mang vẻ buồn vô tận của thời gian

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Cành củi nhỏ bé trôi vô định giữa những dòng nước cuốn, lạc lối đơn độc giữa dòng sông rộng mênh mông. Nhành củi khô ấy dường nhiều mất đi sức sống, vẻ tươi xanh vốn có, một hình ảnh cô độc, nhỏ nhoi giữa không gian sông nước bao la, rợn ngợp càng tô đậm thêm nỗi cô đơn trống vắng trong lòng người.

phan tich hinh anh thien nhien trong bai tho trang giang 1

Bài văn Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Giữa đất trời vũ trụ bao la mà thiên nhiên dành tặng, vậy mà đâu đó vẫn hiện lên cảnh hiu quạnh, vắng vẻ, lạnh lẽo:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.

Một khung cảnh tiêu điều hiện ra trước mắt, nhìn nơi đâu cũng thấy lạnh lẽo, hoang tàn. Tiếng vãn chợ xa xôi vọng lại càng tô đậm nét buồn nơi cảnh vật, chẳng thể xua bớt đi vẻ tĩnh mịch nơi thiên nhiên. Có sóng, có nắng, có đất trời, mọi cảnh vật dường như đang chuyển động trước thời gian. Không gian rợn ngợp ngút ngàn mà con người thì nhỏ nhoi, cô đơn, sầu muộn” bến cô liêu”.

“Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Từ khung cảnh tổng quát, tác giả cảm nhận thiên nhiên một cách chi tiết hơn mong tìm thấy chút hi vọng nhỏ nhoi của niềm vui, nhưng càng nhìn lại càng buồn, càng soi thấu lại càng khắc khoải, từng cách bèo hàng nối hàng trôi nổi, không đích đến giữa biển nước bao la. Nó như tượng trưng cho những kiếp người bạc bẽo, nổi trôi vô định giữa cuộc đời. Bờ xanh với bãi vàng song hành cùng nhau, nhìn đâu cũng mang vẻ buồn tư lự, ngước đâu cũng chẳng thấy bóng người qua chuyến đò ngang. Tất thảy, vẫn là thiên nhiên với thiên nhiên, vẫn là mình ta với đất trời rợn ngợp, với vũ trụ bao la trùm kín nỗi sầu nhân thế.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Từng đám mây chuyển động theo từng lớp tạo nên vẻ đẹp của bầu trời xanh.Từng cánh chim nhỏ nhoi đã xuống dòng sông bay về nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc lúc hoàng hôn buông xuống. Tất cả tạo nên một khung cảnh buồn vương vấn. Không gian mở rộng đến rợn ngợp, nỗi buồn cứ thế cũng dài bất tận, dằng dặc.

Thiên nhiên tuy đẹp đấy, hùng vĩ thật đấy nhưng lại lặng lẽ buồn. Phải chăng bởi được khúc xạ qua tâm hồn của một thi sĩ nhiều tâm sự với người, với đời, bởi vốn dĩ:” Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bằng những nét vẽ tinh tế, bút pháp chấm phá đặc sắc, kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và cổ điển, Huy Cận đã vẻ nên một bức tranh thiên nhiên rất riêng. Phải có một tình yêu tuyệt vời dành cho thiên nhiên, cho quê hương, Huy Cận mới viết nên những vần thơ đầy tinh tế, gợi cảm đến như thế.

3.Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang,mẫu số 3:

Khi nhận định về phong trào thơ mới, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những lời bình rất hay và thú vị: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Có thể thấy dường như tất cả những nỗi buồn của thơ mới đều tập trung ở Huy Cận, một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất điều đó chính là Tràng giang, một bài thơ hiện lên với phong cảnh thiên nhiên trữ tình cũng nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, vô định của nhà thơ.

Huy Cận (1919-2005), tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Pháp, thơ của ông hàm súc giàu tính suy tưởng và triết lý. Các tập thơ tiêu biểu cảu ông bao gồm: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng.

Tràng giang là bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận, đây là một bài thơ hay và tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới, đánh dấu phong cách thơ của Huy Cận trong rất nhiều nhà thơ mới cùng thời. Tràng giang được khơi nguồn cảm hứng từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, lời thơ và hình ảnh thơ thấm đẫm màu sắc cổ điển, bài thơ khắc họa phong cảnh thiên nhiên trong không gian buồn vắng mênh mông. Thông qua đó, nhà thơ đã bộc lộ tình đời tình người và lòng yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng, nửa thầm kín.

Trước hết từ nhan đề Tràng gian, ta đã cảm nhận được được nỗi ám ảnh không gian trong tâm hồn Huy Cận, trong hay từ Tràng giang, vốn dĩ chúng ta thường quen miệng đọc là trường giang, thì tác giả lại tìm cách biến đổi thành điệp âm “ang”, như vậy tầng nghĩa của nhan đề đã có sự mở rộng. Âm mở rộng như vậy đã đem đến cho người đọc một cảm giác mới lạ, bởi lúc này đây Tràng giang không chỉ đơn thuần là một dòng sông dài mà còn là “đại giang”, là một dòng sông rất rộng và lớn, mênh mông bể sở, gợi tả một không gian mang tầm vũ trụ. Hơn thế nữa Tràng giang còn là một từ Hán Việt, mang sắc thái cổ kính, gợi ra những liên tưởng về một dòng sông không những mang những đặc điểm dài và rộng trong góc nhìn địa lý mà còn có chiều sâu trong tầm nhìn của lịch sử, trong dòng chảy của thời gian, ẩn chứa trong đó cả hàng nghìn năm văn hóa của dân tộc. Nhan đề mang tính khái quát, mang những nỗi niềm chung của nhân dân Việt Nam thời bấy giờ.

phan tich hinh anh thien nhien trong bai tho trang giang 2

Những bài vănPhân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang hay nhất

Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, trước hết là gợi chúng ta đi đến hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm, đồng thời định hướng cách hiểu về nội dung và cảm xúc chủ đạo của bài thơ, viết về không gian thiên nhiên rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ, chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, rồi thì chiều cao giữa trời và nước. Từ những đặc điểm ấy đã hé mở cảm xúc chủ đạo của nhà thơ, những nỗi nhớ bâng khuâng, nỗi hoang mang, lạc lõng giữa khung cảnh thiên nhên quá đỗi rộng lớn, vô tận của một hồn thơ trữ tình nhỏ bé, lẻ loi.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Đại thi hào Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, thơ của Huy Cận cũng thế, mỗi một câu thơ ông tả một cảnh sắc và cảnh sắc ấy lúc nào cũng đượm một nỗi buồn man mác. “Sóng gợn trường giang buồn điệp điệp”, ý tả những con sóng gợn nhẹ trên dòng sông mênh mông gợi lên bao nỗi buồn, vô hồi vô hạn, triền miên không dứt, từ láy hoàn toàn “điệp điệp” mang đến cảm giác tuần hoàn, lặp đi lặp lại, sự quanh quẩn của nỗi buồn trong tâm hồn tác giả. Và trên dòng tràng giang đó xuất hiện một con thuyền, mang đến dấu hiệu của sự sống chứ không còn đơn thuần là cảnh vật tĩnh lặng nữa, từ xưa tới nay thuyền luôn điểm tô cho bức tranh sông nước, nhấn vào đó một cái sinh khí tươi đẹp, nước thì chở thuyền đi muôn nơi, nhưng trong Tràng giang thuyền đến lại gợi sự chia ly, hình ảnh này của nhà thơ đã đem chúng ta về với lối thơ cổ điển. Trong thơ cổ điển, thuyền và nước mang tính ước lệ tượng trưng, bởi “Con thuyền xuôi mái nước song song”, thuyền trôi nước cũng chảy và dường như thuyền với nước tưởng có mối liên quan chặt chẽ nhưng lại chẳng bao giờ giao nhau, ở đây nhấn mạnh từ “song song” một từ láy gợi tả sâu sắc cái sự chia ly, một nỗi “sầu trăm ngả” trong vế tiểu đối “thuyền về về nước lại”, thổi vào khung cảnh một khối u sầu, một niềm dự cảm, buồn thương tan tác của những điều vốn tưởng bên nhau mãi mãi trong cõi lòng của nhà thơ. Trong một không gian đậm chất cổ điển thì câu thơ cuối đoạn đã mang đến một nét hiện đại sâu sắc, “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, đây là hình ảnh ẩn dụ cho biết bao kiếp người nhỏ bé, khô héo, cô đơn trôi dạt trên dòng sông cuộc đời mênh mông rộng lớn, không biết nơi đâu là bến đỗ bình yên.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Nếu như trong khổ thơ thứ nhất nhà thơ khái quát một không gian rộng lớn, hoang vắng thì đến khổ thơ thứ hai nhà thơ lại đặc tả cảnh hoang vắng trên sông, qua hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” kết hợp với biện pháp tu từ nhân hóa càng nhấn mạnh thêm nỗi buồn, cả một không gian rộng lớn như vậy lại chỉ có vài cái cồn cát thưa thớt, rồi thì vài ngọn gió hắt hiu, đã buồn lại càng buồn thêm. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, từ “đâu” có nghĩa là đâu đây, sự lắng nghe của Huy Cận giữa không gian cô quạnh có tiếng người, tiếng “làng xa vãn chợ chiều”, nhưng cũng có thể là một câu hỏi bâng khuâng với trời đất, với lòng tràng giang rộng lớn, chợ chiều đã vãn đang đâu rồi? Điều ấy gợi lên một nỗi buồn xao xác, trong khung cảnh chợ chiều tàn ở làng quê nghèo miền Bắc vào những năm trước cách mạng tháng 8. Cho dù là ở nghĩa “đâu” nào thì chúng ta cũng cảm nhận được sự cô đơn rợn ngập, chất chứa đầy trong tâm hồn của nhà thơ. Tiếp theo, tiểu đối “Nắng xuống trời lên” kết hợp với cụm từ đặc biệt “sâu chót vót” đã làm cho khung cảnh trời đã rộng, sâu lại càng trở nên sâu rộng vô cùng và trong khung cảnh ấy con người càng buồn, càng cô đơn, sự cô đơn đến cùng cực. Hình ảnh “Trời rộng sông dài” ở lời đề từ đã được đổi ngược lại trong khổ thơ này thành tiểu đối “Sông dài trời rộng” kết hợp với cụm từ “bến cô liêu”, Huy Cận đã cảm nhận đến tận cùng sự mênh mang của cảnh vật và nỗi cô đơn của con người.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh ẩn dụ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”, gợi lên thân phận của bao kiếp người, nổi trôi trên dòng sông cuộc đời mênh mông rộng lớn. Hai tiếng “về đâu” là câu hỏi khắc khoải, da diết đặt ra cho cuộc đời, cho xã hội và cho chính bản thân người nghệ sĩ. Những từ láy “mênh mông”, “lặng lẽ” đã khắc họa thêm sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn của con người, điệp từ “không” kết hợp với cụm từ “không một chuyến đò”, “không cầu” đã đẩy sự hoang vắng ấy lên đến cực điểm, chạm đến tận cùng nỗi cô đơn, lạc lõng giữa khung cảnh thiên nhiên rộng lớn và buồn bã. Cuối cùng chỉ có “Bờ xanh tiếp bãi vàng”, gợi ra khung cảnh mênh mông đến hút tầm mắt và trong khung cảnh ấy, con người thật nhỏ bé, thật cô đơn biết bao, bởi liệu có ai sẽ hiểu, sẽ tiếp nhận nỗi buồn trong sâu thẳm tâm hồn tác giả.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Sau khi phóng hết tầm mắt ra xa đến tận cùng, Huy Cận lại nhìn lên bầu trời, nơi đây chỉ thấy mây và núi “mây cao đùn núi bạc”, từ “đùn” nghĩa là xếp chồng lên nhau kết hợp với từ láy lớp lớp đã tạo nên một khung cảnh hùng vĩ, bao la, rộng lớn. Trên cái nền trời ấy, bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ bé cô đơn, chim nghiêng cánh cho bóng chiều sa xuống, đây là một hình ảnh quen thuộc, hình ảnh ước lệ tượng trưng trong thi ca cổ điển. Trước khung cảnh ấy nhà thơ chậm rãi nhớ về quê hương, tuy vậy đây không chỉ là nỗi nhớ của một người con xa quê mà đây còn là nỗi niềm của cả một thời đại, một thế hệ luôn mang một nỗi nhớ quê hương, thiếu quê hương, bởi nó chẳng cần đến “khói hoàng hôn”. Ngẫm kỹ mới hiểu đây là nỗi buồn vong quốc sâu sắc trước thời cuộc rối ren.

Tràng giang là bài thơ mang đậm phong cách và hồn thơ riêng của Huy Cận, có câu nói về Huy Cận như sau: “Chàng là con một người mẹ hay sầu. Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”, tưởng chừng như Huy Cận từ khi sinh ra đã mang một số kiếp lạc loài, một tâm hồn lẻ loi, chính vì thế mà ông thường sầu, sầu cho thế nhân, sầu cho nỗi đớn đau của quê hương đất nước, rồi sầu cả cho chính bản thân mình nữa. Thơ của Huy Cận cứ gói gọn trong một chữ “buồn” mênh mông kết hợp với cả cái nỗi ám ảnh không gian lạ lùng, tất cả đã tạo nên một hồn thơ Huy Cận thật riêng, thật khác trong phong trào thơ mới 1932-1945.

—————HẾT————–

Tràng giang là thi phẩm đặc sắc tiêu biểu cho phong cách và hồn thơ của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám. Để có những cảm nhận chi tiết về bài thơ, bên cạnh bài Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang, các em có thể tham khảo thêm:Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Tràng giang, Chỉ ra chất cổ điển và hiện đại của bài thơ Tràng Giang, Bình giảng bài thơ Tràng giang, Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận.

Các em cùng tham khảo thêm bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạđể hiểu bài hơn cũng như biết được cách làm bài văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button