Lớp 10

Một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của Cảnh ngày hè

>> Những bài văn Phân tích bài Cảnh ngày hè hay, đạt điểm 10

mot so van de ve noi dung va nghe thuat cua canh ngay he

Một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của Cảnh ngày hè:

I. TÁC GIẢ

– Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại( Chí Linh, Hải Dương). Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn học và giàu lòng yêu nước, nhờ đó hun đúc, kết tinh những phẩm chất, tài năng cho một nhân tài vĩ đại của đất nước: đại thi hào, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa. Năm 1980, ông được UNESCO trao tặng danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới, là “sứ giả của dân tộc Việt Nam”, là “thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người”.

– Cuộc đời ông tuy trải qua nhiều biến động nhưng tâm hồn ông vẫn hướng về nhân dân với một tấm lòng thương yêu cảm thông sâu sắc. Ông dành tình yêu cao cả và mênh mông của mình cho thiên nhiên và “dân đen”, “con đỏ”. Điều đó được thể hiện đầy cảm xúc và thanh nhã và bài thơ “Cảnh ngày hè”- một bức tranh ngày hè đậm đà hương sắc.

II. TÁC PHẨM

– “Cảnh ngày hè” là bài số 43 nằm trong mục “Bảo kính cảnh giới” (Gương báu tự răn mình) của tập thơ chữ Nôm “Quốc âm thi tập” gồm 254 bài của Nguyễn Trãi.

– Bài thơ là sự phá cách của tác giả trên phương diện nghệ thuật của thể thơ thất ngôn Đường luật và bức tranh mùa hè sinh động gõ vào mọi giác quan của con người mang đến cho con người những cảm xúc thi vị đầy chất thơ nhưng cũng ấm áp tình người đồng trái tim với tác giả “Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

III. Những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

1. Nội dung

– Đặt vấn đề hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:

+ Năm 1427: cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau 20 năm gian khổ đã toàn thắng, mở ra trời nam thái bình cho nhân dân. Nhà Hậu Lê bắt tay vào công cuộc xây dựng nước nhà trên nhiều lĩnh vực. Nguyễn Trãi đã tham gia vào công cuộc xây dựng ấy. Nhưng thế sự an bình chỉ kéo dài được một khoảng thời gian, không lâu sau, mâu thuẫn nội bộ lại diễn ra, sự ganh ghét, âm mưu hại lẫn nhau là điều khó tránh khỏi. Vì phẩm chất cương trực, trung thực, thẳng thắn vạch tội bọn quyền thần mà nhiều lần ông bị họ lập mưu nghi oan, suýt mang họa vào thân. Đau buồn trước cuộc sống nơi quan trường, năm 1439, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn, thoát cuộc sống tầm thường, mưu mô về với cuộc sống an nhàn, tĩnh tại. Có lẽ, bài thơ đã ra đời sau khi ông xin về ở ẩn.

+ Tại sao không rõ hoàn cảnh sáng tác bài thơ?: (Nói đến vụ án Lệ Chi Viên). Năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, sau đó sưu tầm lại thơ văn của ông. Đến TK XIX, những tác phẩm của ông mới được sưu tầm tương đối đầy đủ. Cho nên, theo ý kiến cá nhân, xét về hoàn cảnh ra đời, những tác phẩm của ông nói chung và bài “Cảnh ngày hè” nói riêng thì không xác định rõ được thời gian chính xác mà chỉ có thể định tính dựa trên lịch sử dân tộc, nội dung và cảm xúc của tác giả thể hiện qua các tác phẩm.

a. Bức tranh mùa hè sinh động hiện lên cụ thể với sự đa dạng sắc màu, âm thanh tác động mạnh đến nhiều giác quan của người đọc tạo ra một cảm giác như người đọc đang chìm tâm hồn của mình để sống, tận hưởng và quan sát được bức tranh ấy. (6 câu thơ đầu)

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

– Năm 1418, Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng ở Thanh Hóa. 10 năm kháng chiến là 10 năm chứa đựng biết bao nỗi niễm, khó khăn, nguy hiểm đối với thi nhân. Nhưng dường như những khó khăn ấy đối với ông là nơi tu dưỡng nhân cách, phẩm chất, hun đúc một tinh thần vĩ đại trong bậc đại nhân, đại trí:

“Khó khăn thì mặc có màng bao

Càng khó bao nhiêu chí mới hào”

(Thuật hứng, XXI)

Sau những năm kháng chiến đối mặt với muôn vàn khó khăn:

“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Khi Khôi Huyện quân không một đội”

Thì giờ đây, cái “nhàn” thân, giây phút hòa mình cùng vẻ tươi tắn của cuộc sống, đất trời đã về với ông: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. “Rồi” là rỗi rãi, ngày trường là “ngày dài”. Toàn câu thơ quả thật đều nói đến việc nhàn rỗi, thể hiện qua các từ “rồi”, “hóng mát”; “thuở ngày trường”. Thân có nhàn nhưng thực sự tâm có nhàn không? Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy “Một mai, một cuốc, một cần câu”, nhưng tâm hồn của cụ thật điềm nhiên, thanh tịnh “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (Nhàn). Còn cụ Nguyễn Trãi, sống trong hoàn cảnh bị nghi oan, bọn quyền thần gièm pha, nịnh bợ, liệu rằng cuộc sống của nhân dân có được an bình, yên vui? Có lẽ đó là nỗi niềm mà cụ canh cánh mãi trong lòng, khó mà dứt được. Trong nỗi canh cánh đó, bức tranh thiên nhiên tươi tắn hiện về hòa vào bức tranh lao động khỏe khoắn, tươi vui có thể là một niềm an ủi lớn đối với cụ:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Ba câu thơ 2,3,4 hiện ra thật tươi tắn, sinh động.

Có bức tranh, cuộc sống nào tràn ngập sắc hương, âm thanh như bức tranh “làng ngư phủ” này không? Có bức tranh nào tác động mạnh đến mọi giác quan và cảm xúc của người đọc như bức tranh này không? Dường như cảnh hiện lên mà ẩn tình nồng thắm, chứa chan thi vị trong đó. Xuân, hạ, thu, đông: một bức tranh tứ bình của đất trời tràn ngập hương sắc, mang những nét độc đáo riêng biệt. Nhưng mùa hạ vẫn là nóng bỏng, rạo rực nhất:

“Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu, lập lòe đâm bông”

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Tuy bức tranh mùa hè “làng ngư phủ” không có ánh trăng lãng mạn như bức tranh mùa hè của cụ Nguyễn Du nhưng cũng có sắc vẻ rừng rực của hoa lựu đỏ cháy một khoảnh không gian của đất trời “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. Trên cái nền cháy rực của mùa hè ấy, lá hòe xanh rì như đang chen chúc nhau vươn vai trỗi dậy góp phần tô điểm thêm bức tranh sống động ấy “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Trong sắc xanh của hoa hòe, sắc đỏ của hoa lựu, hương sen thoang thoảng trong ao mang đến một không khí thật trang nhã và thanh thoát: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Dường như, hoa lựu đỏ rực, hương sen thoang thoảng là những hình ảnh tượng trưng cho mùa hè đầy sức sống và thi vị. Thi nhân không chỉ vẽ nên bức tranh sự sống cây cỏ mà còn vẽ nên bức tranh cuộc sống của con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Tới đây, quả thực âm thanh thiên nhiên đã hòa vào âm thanh cuộc sống của con người. Tiếng lao xao của làng chài, tiếng dắng dỏi (inh ỏi) của ve râm ran được tác giả ngợi ca như tiếng đàn đã khắc vào bức tranh mùa hè ấy thêm nhộn nhịp nhưng cũng có sự day dứt không nguôi. Tiếng ve kêu đã não nề mà được so sánh như tiếng đàn lại càng não nề hơn. Thi nhân không chỉ miêu tả bức tranh thiên nhiên mà còn miêu tả bức tranh cuộc sống làng chài với một tấm lòng trìu mến, thân thương. Cả hai bức tranh ấy nếu được thi nhân khắc họa vào lúc “xuất dương” (mặt trời mọc) thì nó sẽ sáng sủa, tươi vui hơn nhưng thật tiếc thi nhân đã khắc hoạ nó vào lúc “tịch dương” (mặt trời sắp lặn) tuy có tươi, có rực rỡ nhưng cũng ẩn chứa một nỗi buồn da diết tự tận đáy lòng thi nhân mà còn len lỏi vào tâm thức của bao thế hệ tương lai như nỗi buồn trong hai câu thơ:

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

(Thăng Long thành hoài cổ, Bà Huyện Thanh Quan)

Vậy là khung cảnh mùa hè ấy đã gõ mạnh vào thị giác, khứu giác, thính giác của thi nhân để cho những cảm xúc của thi nhân lan tỏa theo nhịp sống mùa hè với một tâm hồn yêu thiên nhiên phong phú, dào dạt.

=> Từ bức tranh mùa hè ấy, ta có thể thấy rằng tác giả đang quan sát cảnh vật từ trên cao “lầu tịch dương”. Chính vì thế, mà bức tranh mùa hè ấy được miêu tả thật tinh tế và hài hòa.

b. Tấm lòng của thi nhân: khát vọng về cuộc sống thái bình, hạnh phúc cho nhân dân (2 câu cuối)

“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Thần thoại Trung Quốc kể rằng hai triều vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là hai triều đại lý tưởng, xã hội thanh bình, nhân dân hạnh phúc. Riêng vua Ngu Thuấn có khúc hát Nam Phong, trong đó có câu: “Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngô dân chi tài hề” (Gió Nam thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của). Phải chăng từ thần thoại đó mà đại thi hào Nguyễn Trãi luôn ao ước cho nhân dân mình sẽ được một cuộc sống thái bình, ấm no như thế khi mong ước có được cây đàn của vua Ngu Thuấn để đàn một khúc Nam phong. Có phải chăng, 2 câu thơ cuối không chỉ là khát vọng, nguyện ước cao cả của thi nhân mà còn ẩn chứa sự ca ngợi về 2 triều đại vua Lê:

“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông

Thóc gạo đầy nhà, trâu chẳng buồn ăn”

Sau 20 năm dai dẳng kháng chiến, trận Chi Lăng – Xương Giang kết thúc với khí thế hào hùng oanh liệt của dân tộc ta:

“Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông

Nổi gió to trút sạch lá khô

Thông tổ kiến phá toang đê vỡ”

(Bình Ngô Đại Cáo)

Tháng 4/ 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Hậu Lê, bắt tay vào công cuộc xây dựng và khôi phục đất nước trên mọi phương diện, đặc biệt là trong nông nghiệp tạo mọi điều kiện cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì thế, câu thơ cuối cùng “Dân giàu đủ khắp đòi phương” lại một lần nữa chứng minh cho tư tưởng nhân nghĩa, yêu dân trong những sáng tác của Nguyễn Trãi, đồng thời ông không chỉ ước mơ cho dân “giàu đủ” nhiều phương trong thời đại của ông mà còn ước ao cho bao thế hệ mai sau của một đất nước mà:

“Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

2. Nghệ thuật

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Các vấn đề nghệ thuật của bài thơ:

– Thanh và luật bằng trắc: Theo quy luật thanh và luật bằng trắc của thơ Đường, câu thứ nhất chữ thứ hai được viết theo thanh nào thì thuộc bài thơ luật đó. Do đó “Cảnh ngày hè” là bài thơ luật trắc (chữ thứ hai câu thứ nhất là thanh trắc “hóng“)

– Niêm: “là cách sắp xếp các câu thơ dính lại với nhau về nhịp thanh gây sự liên lạc mật thiết về âm điệu”. Theo quy tắc thơ Đường luật câu 1 niêm với câu 8, câu 2 niêm câu 3, câu 4 niêm câu 5, câu 6 niêm câu 7, “hai câu niêm với nhau là khi chúng cùng một nhịp thanh bằng trắc. Hai câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ hai của 2 câu thơ cùng thanh với nhau.

Bài thơ là sự kết hợp giữa những quy tắc thơ Đường luật và sự phá cách của thi nhân:

– Quy tắc:

+ Bố cục: đề (giới thiệu), thực (giải thích), luận (bàn rộng), kết (cảm tưởng, thái độ của tác giả – tình). Nói cách khác, bài thơ đã đi đúng bố cục của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật (6 câu đầu tả cảnh, 2 câu cuối diễn tình)

+ Đối: “Trong một bài thơ Đường luật bát cú, đối được thực hiện ở hai câu thực(3, 4) và luận(5, 6). Bài thơ đã thể hiện được điều này:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ – Hồng liên trì đã tiễn mùi

Lao xao chợ cá làng ngư phủ – Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

+ Vần: “ương” ở “chữ chót câu đầu và các câu chẵn” => vần chân, độc vận

“Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương

+ Nhịp: 2/2/3 theo quy tắc thơ Đường luật

“Hòe lục/ đùn đùn/ tán rợp giương”

“Lao xao/ chợ cá/ làng ngư phủ”

“Dắng dỏi/ cầm ve/ lầu tịch dương”

– Sự phá cách, sáng tạo

+ Hai câu lục ngôn mở đầu và kết thúc bài thơ là điểm nhấn nghệ thuật quan trọng và đặc sắc. Đó là câu thất ngôn bị “tỉnh lược” đi một chữ.

+ Nhịp thơ: một số câu được ngắt nhịp là 3/ 4, trong khi đó thơ Đường luật ngắt nhịp 4/3:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”

“Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng”

“Dân giàu đủ khắp đòi phương”

– Sử dụng các từ láy giàu giá trị biểu cảm và diễn đạt: “đùn đùn” (Động từ, kéo đến rất nhiều); “lao xao” (Tính từ, chỉ những âm thanh không đều), “dắng dỏi” (Tính từ, tiếng cao lanh lảnh).

– Sử dụng các động từ “giương”, “phun”, “tiễn” diễn tả khéo léo không chỉ sức sống của cỏ cây mà tiềm tàng sức sống mãnh liệt của người lao động và tấm lòng khao khát cống hiến sức mình cho quê hương, đất nước của thi nhân.

– Ba câu thơ 2, 3, 4 đưa sự vật lên trước, sau đó miêu tả sắc thái của sự vật nhằm làm nổi bật sự vật. Đó là một điểm nghệ thuật đặc sắc. Đồng thời, thi nhân đưa vào bức tranh ấy ba màu sắc tươi sáng “lục”, “đỏ”, “hồng” có sự hài hòa, cân đối.

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

– Toàn bài thơ cô đọng qua từ “dân” trong câu thơ cuối: “Dân giàu đủ khắp đòi phương” thể hiễn tư tưởng nhân nghĩa, thương dân của đại thi hào. Và đó là “nhãn tự” của bài thơ.

TỔNG KẾT:

Trong tập “Việt thi”, Lệ thần Trần Trọng Kim có viết: “Thơ luật lấy tình và cảnh làm tư liệu, lấy ý và từ làm sự vận dụng. Tình nhiều, cảnh rõ, ý cao, từ đẹp là thơ hay”. Và bài thơ “Cảnh ngày hè” của đại thi hào Nguyễn Trãi đã đạt đến nội dung và nghệ thuật đặc sắc đó.

Sau khi đã tìm hiểu xong nội dung trên, các em có thể đi vào vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi qua bài Cảnh ngày hè nhằm củng cố kiến thức của mình về nội dung tác phẩm cũng như tìm hiểu nội tâm tác giả.

Bên cạnh Một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của Cảnh ngày hè các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Dàn ý Cảm nhận bài thơ Cảnh ngày hè hay phần Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Cảnh ngày hè nhằm củng cố kiến thức của mình.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button