Đề bài: Anh/chị hãyBình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang: “Lơ thơ cồn nhỏ… trời rộng, bến cô liêu.” để thấy được tâm trạng cô đơn, lạc lõng của Huy Cận.
Bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Tràng giang: “Lơ thơ cồn nhỏ… trời rộng, bến cô liêu.”
Bài làm:
Trong phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945 có lẽ nồng nàn, lãng mạn nhất là Xuân Diệu, điên cuồng nhất thì chính là Hàn Mặc Tử, rồi buồn nhất thì có lẽ không ai qua được Huy Cận. Nỗi buồn của Huy Cận không phải là nỗi buồn tình yêu đôi lứa, mà là nỗi buồn đời, buồn thân phận nổi trôi. Có người nói vui rằng lúc mang thai có lẽ thân mẫu Huy Cận thường sầu, nên chàng thi sĩ trẻ ấy sớm đã mang trong mình một nỗi buồn bã vô tận, mắt luôn đẫm lệ đời. Biệt tài văn chương của Huy Cận chính là biết cách gợi nỗi buồn, lây nỗi buồn của mình sang cả không gian mênh mang, mà thể hiện rõ ràng nhất ấy là trong bài thơ Tràng giang.
Thơ Huy Cận thường giàu triết lý và nỗi niềm suy tưởng về nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan một cách sâu sắc. Huy Cận yêu thích nhất là thể loại Đường thi của văn học Trung Quốc, rồi cũng yêu luôn cả cái chất lãng mạn của văn học Pháp. Thế nên đọc thơ ông lúc nào ta cũng thấy đậm màu sắc cổ kính trong từng vần thơ, rồi đôi chỗ lại thấy một nét hiện đại chen vào. Thế nhưng, chúng lại hỗ trợ cho nhau thật tuyệt vời tạo nên một hồn thơ rất Huy Cận, rất mênh mang rộng lớn.
Trong Tràng giang, nếu như khổ thơ thứ nhất đặc tả cảnh sông nước mênh mông, thì qua đến khổ thơ thứ hai dường như tầm mắt của tác giả đã thu lại, ông nhìn đến những cồn cát, tai ông bắt đầu lắng nghe, tấm lòng cũng lặng lại và buồn hơn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Huy Cận không nhìn thấy những cồn cát lớn, mà lại thấy những cái cồn nhỏ nhoi, lạc lõng “lơ thơ”, rất thưa thớt mong manh, cảm giác Huy Cận tả cồn cát mà như tả một cành liễu phất phơ trước gió vậy. Thêm chút “gió đìu hiu”, lại càng khiến không gian trở nên hoang vắng, hiu hắt hơn cả, gió ở bến sông mà chỉ tới mức “đìu hiu” thì ảm đạm quá, đọc từ láy ấy người ta chỉ có thể liên tưởng đến một từ “buồn thiu” mà thôi!
Thế rồi đang lúc trầm tư, suy tưởng Huy Cận bỗng đưa vào một câu hỏi, câu hỏi ấy đã chính thức đánh dấu cái sự sống mong manh giữa cái không gian thật hoang vắng nơi bến Chèm khi ấy. Ông nghe đâu đây có tiếng người vãn buổi chợ chiều hoặc đang nghi vấn tiếng vãn chợ ồn ào văng vẳng ở đâu chăng? Dù thế nào thì cũng không quan trọng, bởi chúng đều đúng và đều hướng tới một cảnh duy nhất, có tiếng chợ đấy nhưng xa lắm, chỉ lờ mờ, thấp thoáng mà thôi và Huy Cận vẫn cô đơn, lẻ loi tại bến sông này. Nghệ thuật lấy động chế tĩnh thật hay và thật tài tình qua ngòi bút buồn của Huy Cận, lấy cái tiếng vãn chợ tận “làng xa” nào ấy đem vào không gian rộng lớn này, điều ấy càng nhấn mạnh thêm cái hoang vắng, bốn bề tĩnh lặng của bến sông Hồng. Rồi thì lòng Huy Cận cũng càng trở nên trầm lặng hơn, buồn hơn, cảm giác cô đơn lạc lõng hơn cả.
“Nắng xuống, trời lên” là một hình ảnh có sự phá cách hơi hướng hiện đại kết hợp thêm với cụm “sâu chót vót” đã mở cái không gian sông nước vốn rộng lớn theo chiều ngang nay lại càng trở nên bao la hơn theo chiều dọc. Trời và đất dường như được giãn rộng thêm khoảng cách trong thơ Huy Cận, vừa sâu lại vừa xa hơn rất nhiều. Những tưởng mở rộng không gian thì nỗi buồn Huy Cận sẽ loãng hơn, đỡ hiu hắt hơn, nhưng không, dường như ta cảm giác được rằng thi sĩ đang nhả nỗi buồn của mình một cách từ từ. Huy Cận tựa như một chú mực đang phun thứ mực đen của mình ra khiến chúng lan tỏa khắp mặt nước vậy. Để rồi đâu đâu ta cũng thấy vương vấn nỗi buồn của Huy Cận, từ gió, trời, sông, bến đều nhuốm nỗi sầu của ông. Đọc câu thơ cuối, dường như Huy Cận đang ngầm khẳng định thêm cái nỗi sầu của mình “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”. Khắp cả cái không gian dài rộng ấy, không có ai cả, chỉ có “bến cô liêu” và bến chính là phiến chỉ Huy Cận đó. Ông đang thầm thở dài trước cái thân phận nổi trôi, cô đơn của người thi sĩ trong một xã hội rối ren, tam quan đảo lộn này, có lẽ ông cũng đang thầm hoài niệm về những ngày xưa cũ nơi mà ở đấy có cảnh huy hoàng, đẹp đẽ chăng?
Chỉ một đoạn thơ ngắn bốn dòng, mang màu sắc cổ điển và một nét chấm phá hiện đại, cũng đủ để cho ta thấy một hồn thơ Huy Cận thật đặc sắc. Dường như thơ ông chỉ gói gọn trong một chữ “buồn” mà khai thác, có lẽ sống dưới thân phận một thi sĩ nghèo, lại đương buổi rối ren, loạn lạc nên Huy Cận mới sinh ra nhiều nỗi buồn như thế. Thơ Huy Cận phải đọc thật kỹ ta mới có thể thấy một tình yêu quê hương, đất nước thật nồng nàn, tha thiết chẳng kém ai đang ẩn hiện trong những vần thơ buồn man mác của ông.
——————-HẾT———————
Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho phong cách và tài năng của nhà văn Huy Cận, khám phá những đặc sắc về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ này, các em không nên bỏ qua:Bình giảng khổ thơ thứ hai bài Tràng giang, Phân tích bức tranh quê và tấm lòng yêu đời của Hàn Mặc Tử trong Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích cái tôi trữ tình của Hàn Mạc Tử trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ.