Lớp 10

Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng

Đề bài: Anh/chị hãy trình bàyCảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.

cam nhan ve doan chi khi anh hung

Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng

I. Dàn ý Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều.
– Dẫn dắt giới thiệu trích đoạn Chí khí anh hùng.

2. Thân bài

a. 4 câu đầu:
– Hoàn cảnh ra đi của Từ Hải:
+ “Nửa năm”- khoảng thời gian ngắn mà cả Thuý Kiều và Từ Hải bên nhau kể từ khi Từ Hải cứu Kiều.
+ “Hương lửa đương nồng”: cuộc sống hạnh phúc, ấm êm, mặn nồng của Thuý Kiều và Từ Hải.
+ Động từ “thoắt”: thể hiện sự quyết đoán mau lẹ của Từ Hải…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ý Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng tại đây.

II. Bài văn mẫuCảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng

1. Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, mẫu số 1 (Chuẩn)

Nguyễn Du sinh năm 1766, mất năm 1820 là một nhà thơ, nhà văn hoá lớn của dân tộc. Ông có những đóng góp quan trọng đưa văn học Trung đại Việt Nam phát triển đến đỉnh cao, tiêu biểu nhất có thể kể đến đại kiệt tác Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh). Truyện Kiều là tiếng nói đồng cảm, xót thương của đại thi hào với kiếp tài hoa bạc mệnh của nàng Kiều. Không chỉ bênh vực những người phụ nữ tài hoa, bất hạnh phải chịu nhiều bất công trong xã hội xưa, qua Truyện Kiều nhà thơ còn bộc lộ ước mơ về công lí, về mẫu hình người anh hùng xuất có thể cứu nước giúp đời qua hình tượng nhân vật Từ Hải. Lí tưởng, phẩm chất và hoài bão cao đẹp của người anh hùng Từ Hải được thể hiện rõ nét qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

Từ Hải gặp Kiều trong chốn lầu xanh, vì cảm mến phẩm hạnh của nàng mà ra tay cứu giúp. Kiều được giải thoát, nguyện lòng theo Từ Hải để báo đáp ân tình. Hai người sống bên nhau gắn bó, êm đềm hưởng hạnh phúc lứa đôi, nhưng không được bấy lâu, chí nguyện lập công danh đã thôi thúc Từ Hải ra đi:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

“Nửa năm”- khoảng thời gian ngắn mà cả Thuý Kiều và Kim Trọng được sống bên nhau trọn vẹn. “Hương lửa đương nồng”- tình cảm thắm thiết, gắn bó ấm êm của người con gái tài sắc và kẻ anh hùng trong thiên hạ. Tình cảm đang mặn nồng như thế, những tưởng cả hai sẽ chấp nhận vui hạnh phúc gia đình đến cuối đời thì bậc “trượng phu” lúc này lại nuôi chí anh hùng. Động từ “thoắt” thể hiện sự quyết đoán mau lẹ và ý chí quyết tâm của Từ Hải khi sẵn sàng gác lại hạnh phúc cá nhân để hướng tới mục đích lớn là làm nên sự nghiệp. “Động lòng bốn phương” cho thấy trái tim và lí lí của người anh hùng đang khát khao được vẫy vùng nơi biển lớn, giữa vũ trụ bao la.

“Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Lòng nuôi chí chớn, mắt hướng về chốn biên ải xa, nơi trời bể mênh mang, nơi nuôi những chiến công hiển hách. Tâm trí Từ Hải như được cả không gian vũ trụ xâm chiếm với những khát vọng cao cả. Hình ảnh “trời bể mênh mang” vẽ nên một không gian xa xôi, rộng lớn, vô tận, kỳ vĩ. Đó là không gian mà đấng trượng phụ mang chí tang bồng khát khao vùng vẫy để làm nên chiến công lẫy lừng của đời mình. Không để hạnh phúc riêng vướng bận, tình cảm cá nhân chật hẹp được thay thế bằng khát vọng lớn lao: lập nghiệp lớn, người anh hùng ra đi trong tư thế đầy hiên ngang, ngạo nghễ hướng thẳng mục tiêu mà đi. Một mình, một ngựa, một thanh gươm, lên đường ra trận hẹn ngày lập công. Từ Hải quả thật không phải là người của những đam mê thông thường, của những tình cảm chật hẹp nữa mà là con người của sự nghiệp anh hùng với những tình cảm lớn lao. Đó là điều thật đáng trân trọng.

” Kiều rằng: phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Gặp gỡ rồi chia ly, Hải từ biệt Kiều ra đi lập chí lớn, lòng Kiều không khỏi xót xa bởi lẽ, với mỗi người sớm chịu nhiều nỗi đau như nàng, ắt hẳn sẽ càng rất trân quý những phút giây hạnh phúc bên Từ Hải. Là tri kỉ với Từ, Kiều đã hiểu nhưng tâm tư của phu quân mình, bởi vậy mà nàng không cản bước Từ ra đi chỉ nguyện ý xin theo để cùng nhau san sẻ những khó khăn, để được chăm sóc, được gánh vác cùng Từ. Đó là niềm mong mỏi vô cùng chính đáng của Kiều- một người vợ hết mực yêu thương, tin tưởng chồng mình. Lời kiều tha thiết, bộc bạch tâm tư một cách thẳng thắn, không chút băn khoăn, ái ngại, vừa thấu tình đạt lý càng khẳng định vẻ đẹp trong nhân cách của nàng- thuỷ chung, dũng cảm, giàu lòng yêu thương.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Dù rất hiểu tấm lòng của người tri kỉ, nhưng Từ Hải nào muốn nàng phải bôn ba nơi xứ lạ, sao có thể đành lòng để Kiều phải chịu những khổ cực được:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Chí lớn đang đợi chàng thực hiện, nhưng phía trước đầy những gian nan, thử thách, Từ nào có thể nỡ lòng nào để người mình thương chịu khổ cực, gian khó. Bằng lời lẽ chân tình, Từ khuyên Kiều hãy vượt lên những tình cảm thông thường của thói nữ nhi để xứng làm vợ của một đấng anh hùng trong thiên hạ.

Tiếp lời tiễn biệt với Kiều, Từ Hải trấn an nàng bằng lời hứa đầy tự tin:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Từng lời, từng chữ thốt ra mang cả khí phách, ý chí lớn của một đấng quân tử “đầu đội trời, chân đạp đất”. Lên đường chỉ với thanh gươm, yên ngựa nhưng trong chàng luôn tin tưởng vào một chiến thắng lẫy lừng, trở về nắm trong tay “mười vạn tinh binh”, cờ thắng lợi bay phấp phới, tiếng chiêng hòa trong niềm vui chiến thắng. Ngày chiến thắng ấy, Từ sẽ trở về cùng nàng vui hưởng hạnh phúc sum vầy- “rước nàng nghi gia”. Trong lời nói của Tư còn khẳng định sự quyết tâm trên con đường thực hiện lý tưởng với lời hứa hẹn chắc nịch:

“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Lời dặn “đành lòng” chờ đợi của Từ càng cho thấy được Từ rất thấu hiểu tâm tư của người tri kỉ. Lời hẹn đinh ninh “một năm sau” của Từ có lẽ càng khiến Kiều yên tâm hơn bao giờ hết. “Một năm” – khoảng thời gian vô cùng ngắn để Từ gây dựng sự nghiệp, với một người bình thường, để gây dựng sự nghiệp có khi phải dùng cả một đời nhưng với Từ Hải thì chỉ “một năm”. Tài năng, sự tự tin và bản lĩnh của “đấng trượng phu ấy” thật đáng khâm phục.

“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Lời tiễn biệt vừa dứt cũng là lúc Từ Hải ra đi lập chí nguyện. Hành động “quyết lời, “dứt áo” càng khắc hoạ vẻ đẹp lên đường của người anh hùng. Chàng ra đi không vướng bận, không chút quyến luyến hay bịn rịn mà dứt khoát, nhanh chóng và quyết liệt. Hình ảnh “cánh chim bằng” trong câu thơ cuối là một hình ảnh vô cùng đẹp, cánh chim bằng đẹp đẽ bay giữa không trung, sải cánh chín vạn dặm như chính người anh hùng lên đường. Cánh chim bằng còn mang theo cả khát vọng chinh phục, chí khí phi thường và mục tiêu lớn lao của Từ Hải. Hình ảnh lên đường của Từ Hải như một bức tranh của người anh hùng ngạo nghễ giữa chốn trần gian, mang khí phách của một bậc anh hào trong thiên hạ.

“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.”

Có thể nói, qua đoạn trích Chí khí anh hùng, ta thấy được tài năng thể hiện qua ngòi bút của tác giả trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, biện pháp lý tưởng hoá để khắc hoạ hình ảnh một Từ Hải phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ đáng trân trọng.

2.Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, mẫu số 2 (Chuẩn)

Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những kiệt tác của nền văn học trung đại nói riêng và cả nền văn học Việt Nam nói chung. Không chỉ tái hiện cuộc đời và số phận của Thúy Kiều trong mười lăm năm lưu lạc mà ngòi bút Nguyễn Du còn khắc họa đầy sinh động chân dung, tính cách những nhân vật gắn liền với cuộc đời chìm nổi của nàng. Một trong số những nhân vật gắn liền với cuộc đời đời sóng gió của Kiều là Từ Hải. Từ Hải là người anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” vẻ đẹp và chí khí của nhân vật này được tập trung thể hiện rất rõ trong đoạn trích Chí khí anh hùng của Truyện Kiều.

Sự xuất hiện của Từ Hải như ngọn gió tươi mát vào cuộc đời vốn nhiều bế tắc của Thúy Kiều. Từ Hải hoàn toàn là người anh hùng mang vẻ đẹp lý tưởng khi mang trong mình sự mạnh mẽ, khí khái hơn người, đặc biệt là chàng có đủ khả năng để che chở, bảo bọc và tìm lại sự công bằng cho Thúy Kiều. Và sau tất cả Kiều cần nhất chính là một người đàn ông như Từ Hải, vừa làm tri âm tri kỷ vừa là bậc trượng phu đáng để dựa dẫm, yêu thương. Tuy nhiên, Từ Hải không phải mẫu đàn ông có thể cam chịu cuộc sống điền viên, bó buộc nơi cửa nhà chật chội, dù rằng ở đó có bậc hồng nhan đang chờ đợi.

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”

Sau nửa năm sống êm ấm, hạnh phúc cùng Thúy Kiều, Từ Hải đã quyết chí đường đi tìm công danh. Từ “thoắt” thể hiện sự dứt khoát, mạnh mẽ trong suy nghĩ của người anh hùng, “động lòng bốn phương” càng làm bật lên tầm vóc, sức mạnh và hoài bão lập công danh của người anh hùng

“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Hai câu thơ tiếp càng thể hiện khí khái và phẩm chất anh hùng của Từ Hải. “trông vời” cái nhìn rộng lớn, sáng suốt, “lên đường thẳng rong” gợi ra tư thế hiên ngang, hành động dứt khoát không vướng bận. Hình ảnh Từ Hải ra đi đơn độc, chỉ có một thanh gươm, một con ngựa bộc lộ phẩm chất anh hùng, dù gian khó nhưng ý chí mạnh mẽ, dám thách thức cả núi sông, không hề sợ hãi trước những chông gai thách thức đang chờ phía trước.

Trước quyết tâm của Từ Hải, Thúy Kiều đã xin theo cùng để nâng khăn sửa áo, đồng cam cộng khổ với chàng:

“Nàng rằng phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi”

Từ Hải thấu hiểu suy nghĩ và tình cảm của Thúy Kiều nhưng vẫn dứt khoát từ chối “Tâm phúc tương tri/Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Đó là một câu hỏi, cũng đồng thời là lời khuyên bảo giai nhân vượt qua tình cảm nữ nhi thường tình, mong nàng thấu hiểu, trở thành hậu phương vững chắc. Từ Hải cũng thể hiện tấm lòng yêu thương, ân cần đối với Thúy Kiều khi bộc lộ những mong ước, tráng chí của bản thân để làm yên lòng nàng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

1 cam nhan ve doan chi khi anh hung

Bài vănCảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du

Từ Hải ra đi với hai bàn tay trắng nhưng lại mang theo quyết tâm khải hoàn trở về cùng một đội quân tinh nhuệ, chiêng trống, rộn rã khắp nẻo đường. Những từ “mười vạn tinh binh”, “dậy đất”, “rợp đường” đều thể hiện sự hùng tráng, khí thế mạnh mẽ, huy hoàng khi lập chiến công hiển hách trở về quê hương. “làm cho rõ mặt phi thường” càng thể hiện được sự thông tuệ, tự ý thức được khả năng của Từ Hải và ý chí muốn phát huy, bộc lộ tài năng cũng như không cô phụ sự kỳ vọng của hồng nhan.

Câu nói “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” chính là lời hứa hẹn, an ủi có sức nặng khiến Thúy Kiều được yên lòng, vững dạ ở nhà chờ đợi chàng trở về cùng xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc. Thêm vào đó, Từ Hải cũng thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tấm lòng yêu thương lo lắng cho người phụ nữ của mình:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”

Trong những ngày đầu còn khó khăn, Thúy Kiều theo Từ Hải chắc chắn phải chịu cảnh nay đây mai đó mà phận nữ nhi yếu đuối sẽ phải chịu nhiều vất vả, hơn nữa có thể trở thành gánh nặng cho Từ Hải, cản trở nghiệp lớn. Sợ giai nhân phiền lòng, Từ Hải cũng đã để lại cho nàng một lời hứa hẹn:

“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì”

Mốc thời gian một năm sau đã thể hiện quyết tâm phải thành công, mau chóng gây dựng được sự nghiệp, cơ đồ vẻ vang, để không phụ lòng Kiều cũng chẳng phụ lại chí nam nhi trong trời bể. Tầm vóc, sự kiên định, mạnh mẽ ấy của Từ Hải thực xứng đáng bậc anh hùng, cũng là mẫu hình nam nhi lý tưởng, hội tụ đủ những phẩm chất tốt đẹp, xứng với tình yêu của Thúy Kiều.

Sau những lời an ủi, động viên, từ biệt với người vợ kết tóc, Từ Hải nhanh chóng lên đường “Quyết lời dứt áo ra đi”, không chút do dự, lần nữa. Câu thơ “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” như là lời dự đoán trước về cơ đồ hiển hách mà Từ Hải sắp đạt được trong tương lai, thứ công danh vẻ vang ấy sẽ làm rung chuyển trời đất, mà người anh hùng lại trở thành vương của cả một cõi đất trời. Không chỉ thế, Nguyễn Du dùng hình ảnh cánh chim bằng đạp gió mây bay vượt lên trên biển cả, còn thể hiện tầm vóc to lớn, tráng chí vươn tầm vũ trụ của Từ Hải, đề cao vẻ đẹp phẩm chất phi thường của chàng trong công cuộc ra đi tìm công danh sự nghiệp với núi sông, làm hoàn mỹ thêm hình tượng người anh hùng xuất chúng trong xã hội cũ. Thể hiện ước mơ về một bậc vĩ nhân có thể đứng lên dẹp loạn, nắm trong tay cán cân công lý, trừ gian diệt ác, bảo vệ những con người yếu đuối, lầm than.

Chí khí anh hùng là một đoạn trích hay và đặc sắc trong Truyện Kiều khi Nguyễn Du tập trung vào khai thác một nhân vật gắn liền với cuộc đời Kiều bằng những nét vẽ lý tưởng, hoàn hảo cả về ngoại hình lẫn phẩm chất. Đặc biệt nổi bật là phẩm chất đáng quý của người anh hùng, khi ở Từ Hải ta thấy được những khát khao làm nên nghiệp lớn vẻ vang với trời đất, mong muốn khẳng định bản thân trong xã hội, cách suy nghĩ thấu đáo, lối cư xử dứt khoát, mạnh mẽ, phân biệt rạch ròi giữa tình cảm và lý trí.

3.Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, mẫu số 3 (Chuẩn)

Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”, là tri kỉ “tâm phúc tương tri” đã cứu vớt và mang đến cho Kiều những tháng ngày êm đềm, hạnh phúc sau bao biến cố dữ dội. Từ Hải xuất hiện trong truyện Kiều không chỉ với vai trò là tri kỉ của nàng Kiều mà còn là nhân vật thể hiện được mong ước của tác giả Nguyễn Du về một người anh hùng lí tưởng trong thời loạn. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa rõ nét, sống động nhất về Từ Hải, một con người anh hùng xuất chúng có khát vọng, hoài bão cao đẹp, một đấng trượng phu có bản lĩnh, quyết tâm và sự tự tin.

Rơi vào tay Bạc Bà, lần thứ hai, Kiều lại rơi vào chốn lầu xanh. Nàng sống trong tâm trạng chán chường, đầy tuyệt vọng. Thế rồi, Từ Hải xuất hiện như một vị cứu tinh cứu vớt cuộc đời của nàng. Hai người trở thành tri âm tri kỉ và Từ Hải đã đưa Kiều khỏi chốn thanh lâu nhơ nhớp ấy và trở thành vợ chồng.

Nhưng tình yêu với Thuý Kiều cũng không thể kìm chân người anh hùng lâu hơn thế. Nửa năm sau, Từ Hải đã từ biệt Kiều để ra đi thực hiện chí lớn của mình:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Sau nửa năm hạnh phúc, yên ấm bên Thúy Kiều, Từ Hải đã quyết định lên đường thực hiện lí tưởng lớn của cuộc đời mình. Đấng “trượng phu” chí lớn, tài năng như chàng sao có thể ngồi yên một chỗ mà hưởng cuộc sống an nhàn được nên chàng đã “thoắt động lòng bốn phương”. Một từ “thoắt” thôi cũng đủ bộc lộ thái độ dứt khoát, mau lẹ, kiên quyết và bất ngờ khi chàng quyết định ra đi lập nghiệp. Cùng với đó, cụm từ “động lòng bốn phương” càng cho ta thấy được lý tưởng cao đẹp của chàng. Đó là khát vọng được vùng vẫy trong thiên hạ, được thỏa chí lớn bốn phương, ý chí ấy mạnh mẽ không gì cản nổi.

Ở Từ Hải hội tụ đủ những phẩm chất, những yếu tố cao đẹp của một người anh hùng thời loạn, không chỉ có lí tưởng cao đẹp mà người anh hùng ấy còn có bản lĩnh, quyết tâm và những hành động mạnh mẽ, dứt khoát. “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” một mình với một gươm, một ngựa, chàng lên đường “thẳng rong”, nhanh gọn, dứt khoát, không một chút vấn vương. Tư thế đó oai phong, lẫm liệt, hào hùng, sánh ngang với vũ trụ và trời đất.

Bốn câu thơ là cuộc chia tay của Từ Hải và Thuý Kiều. Nhưng ở trong đó, người ta còn thấy được chí khí của người anh hùng Từ Hải với tư thế ra đi hiên ngang, lòng quyết tâm mãnh liệt, ra đi không chút vấn vương.

Còn với Kiều, nàng mới chỉ có “nửa năm” sống yên vui và hạnh phúc. Nàng không muốn mất đi cuộc sống an yên như vậy và cùng là bởi vì, Kiều muốn cùng chồng gánh vác mọi việc. Vậy nên khi Từ Hải ra đi, nàng đã xin theo cùng chàng.

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nàng đã viện tới lý do “xuất giá tòng phu”, chàng đi đâu thì nàng cũng xin theo cùng. Lý do Kiều đưa ra rất hợp tình hợp lý, rất thoả đáng. Thế nhưng, Từ Hải đã khéo léo từ chối nàng, chàng đánh thức sự lý trí trong nàng:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Từ Hải cho rằng hai người đã trở thành “tương tri”, tức là có thể hiểu rõ đối phương, chắc hẳn, Kiều cũng phải hiểu được khát vọng của mình. Vậy nên, chàng khuyên Kiều hãy “thoát khỏi nữ nhi thường tình”, đừng để tình cảm lấn át lý trí, cản trở con đường thực hiện lý tưởng của chàng. Đồng thời, chàng cũng khuyên nàng hãy nghĩ thông suốt để xứng đáng trở thành tri kỉ của người anh hùng.

Những câu tiếp theo, Từ Hải bộc lộ chí lớn của mình thông qua lời hẹn trở về, rằng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp dường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Như vậy có thể thấy rằng, lần này Từ Hải ra đi, chàng quyết tâm làm nên công danh sự nghiệp, làm nên nghiệp lớn thì mới trở về. Những hình ảnh “mười vạn tinh binh, tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường” là những hình ảnh thể hiện ước mơ, khát vọng lớn lao của chàng. Ước mơ của chàng là lập nên nghiệp lớn lừng lẫy thiên hạ, hiển hách. Khát vọng ấy, ước mơ ấy mang tầm vóc vũ trụ bao la và rộng lớn. Chàng muốn cho thiên hạ thất được tầm vóc của chàng, khẳng định tài năng xuất chúng của mình trong thiên hạ:

“Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Và chính lúc ấy, khi công đã thành, danh đã toại, chàng sẽ rước Kiều về nhà, cho nàng một danh phận lớn và cùng chung sống hạnh phúc với nàng suốt đời.

Từ Hải ra đi lần này, chàng không chỉ đi để thực hiện khát vọng ấp ủ trong lòng mà còn vì Kiều, hướng về Kiều, muốn cho nàng có được một cuộc sống an yên, hạnh phúc hơn người.

Không chỉ là một người có chí lớn bốn phương, Từ Hải còn là người biết nhìn ra trông rộng, chàng nói với Kiều rằng:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Từ Hải ý thức được tài năng của mình, chàng tự tin vào tài năng đó, chàng tin rằng nhất định mình sẽ làm nên sự nghiệp, thế nhưng, hiện tại, chàng không có gì trong tay, lại thêm vướng bận nữ nhi làm chàng phân tâm, liệu chàng có làm nên sự nghiệp? Hơn thế, Kiều là phận nữ nhi, liễu yếu đào tơ, theo chàng chinh chiến, lang thang thì sao chịu nổi, vậy nên chàng muốn nàng ở nhà, trở thành hậu phương vững chắc cho chàng.

Đáp lại sự chờ đợi của Kiều, Từ Hải nhất định sẽ chẳng phụ lòng giai nhân. Chàng hứa với Kiều chắc nịch rằng:

“Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?”

Đây là lời hứa, lời khẳng định chắc chắn của Từ Hải rằng một năm sau, chàng sẽ quay về. Đó là lời ước hẹn của hai người cũng là lời khẳng định đầy tự tin của chàng vào tài năng của mình.

Đoạn đối thoại giữa Kiều và Từ Hải càng làm nổi bật ý chí, khát vọng và quyết tâm ra đi của người anh hùng Tù Hải. Khát vọng và quyết tâm ấy lớn đến nỗi không gì có thể cản nổi!

Cuối cùng, sau bao lời bộc bạch, khuyên nhủ, Từ Hải từ biệt Kiều rồi dứt áo ra đi:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”

Thái độ của chàng ra đi đầy dứt khoát, không hề do dự. Chàng ra đi như cánh chim “bằng” tung cánh vút bay vào mây gió. Câu thơ cuối cùng với hình ảnh “cánh chim bằng” là hình ảnh ẩn dụ cho người anh hùng với bản lĩnh phi phàm, khát khao lập lên nghiệp lớn. Lấy hình ảnh chim “bằng” so sánh với Từ Hải nhằm diễn tả dự oai dũng, phi thường, tráng trí mạnh mẽ, mang tầm vóc vũ trụ của người anh hùng. Cánh chim vút bay cùng mây gió cũng là khi người anh hùng ra đi tạo nên sự nghiệp hiển hách, vang danh khắp thiên hạ.

Bằng bút pháp ước lệ cổ điển, Nguyễn Du đã mang tới hình tượng người anh hùng chí lớn, mạnh mẽ, dứt khoát, đầy lý tưởng. Từ Hải là người anh hùng toàn vẹn, thấu tình đạt lý, đúng như ước mơ trong trí tưởng tượng của Nguyễn Du về người anh hùng dũng cảm dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại bình yên, công lý, công bằng cho xã hội.

4.Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, mẫu số 4 (Chuẩn)

Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là tác phẩm xuất sắc bậc nhất của văn học trung đại Việt Nam, được xếp vào hàng kinh điển mẫu mực của thể loại truyện thơ Nôm. Với nội dung tố cáo, phản ánh hiện thực xã hội bất công và thương cảm cho những số kiếp con người bất hạnh, đau thương đặc biệt là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc Nguyễn Du đã triệt để bộc lộ được tư tưởng nhân đạo yêu thương, trân trọng con người một cách toàn diện, vừa xót thương, vừa thông cảm thấu hiểu, đồng thời cũng là trân trọng ngợi ca, những phương diện mà trước đây văn học trung đại Việt Nam còn chưa để ý, hoặc mới chỉ manh nha qua một vài tác phẩm, tác giả mà còn chưa được hoàn thiện. Trong tổng thể tư tưởng nhân đạo ấy của Nguyễn Du, thì sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người được ông thể hiện rất rõ qua nhân vật chính là Thúy Kiều, khi xây dựng hình tượng nhân vật lý tưởng với vẻ đẹp toàn diện cả nhân cách lẫn phẩm chất. Bên cạnh lý tưởng về hồng nhan, thì Nguyễn Du cũng có ước mơ về hình tượng người anh hùng lý tưởng thông qua việc khắc họa chân dung nhân vật Từ Hải – người đàn ông có vị trí quan trọng trong cuộc đời Kiều. Vẻ đẹp ấy được tác giả bộc lộ rất rõ thông qua đoạn trích Chí khí anh hùng.

Đoạn trích nằm từ câu 2213 đến câu 2230 của Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Về phần Thúy Kiều sau mối tơ duyên với Thúc Sinh bị Hoạn Thư cắt đứt bằng thủ đoạn tinh vi, nàng bỏ trốn để thoát khỏi cảnh tủi nhục và đau thương. Nàng nương nhờ sư Giác Duyên và được gửi đến sống ở nhà Bạc Bà, rồi bị ép gả cho cháu bà ta là Bạc Hạnh, những tưởng dẫu không mặn mà gì với kẻ này nhưng cũng coi như được yên thân, thì ngờ đâu sau ít lâu chung sống Bạc Hạnh đã nhẫn tâm bán nàng vào kỹ viện lần nữa. Cuộc đời Kiều sau khi bước qua hết đau thương này đến bi kịch khác, trái tim của nàng đã dần nguội lạnh, cuộc sống rơi vào cảnh tăm tối và bế tắc vô cùng. Đúng lúc này Từ Hải, người vốn mến mộ danh tiếng Kiều đã lâu xuất hiện cứu Kiều ra khỏi chốn lầu xanh nhơ nhuốc, cho nàng một cuộc sống điền viên vợ chồng đúng nghĩa. Đang lúc tình chàng ý thiếp nồng nàn, thì Từ Hải lại muốn ra đi làm nghiệp lớn vậy nên mới có cảnh đối đáp chia tay trong Chí khí anh hùng.

Có thể nhận xét rằng Từ Hải và Thúy Kiều đích thị là trai anh hùng gái thuyền quyên, đôi bên ngay từ lần gặp đầu tiên đã có những rung động sâu sắc, thấu hiểu lẫn nhau. Cũng có thể nói, trong số những người đàn ông bước qua đời Kiều thì Từ Hải chính là người đã cho Kiều được những ngày tháng hạnh phúc vẹn toàn nhất, không giống như mối tình đầu sớm tan vỡ với chàng Kim hay mối tình lắm oan trái với chàng Thúc. Ở Từ Hải ta thấy toát lên khí khái mạnh mẽ, sẵn sàng bảo bọc che chở được cho Thúy Kiều khỏi tai ương, khổ hạnh, thế nên chỉ khi ở bên cạnh Từ Hải Kiều mới thực sự được yên lòng, hưởng dụng cuộc sống. Tuy nhiên cùng với cái “côn quyền hơn sức”, “thao lược gồm tài” của mình thì Từ Hải ắt không thể chịu cuộc sống bó gối hưởng thụ ôn hương nhuyễn ngọc giống Thúc Sinh, hay việc trông đợi công danh như Kim Trọng được. Sự tài năng, mạnh mẽ và khí khái anh hùng đã thôi thúc Từ Hải tạm chia xa với Kiều để đi làm nghiệp lớn, trả món nợ công danh cho xứng với bậc trượng phu. Thế nên có thể rằng đối với lời nỉ non “nửa năm hương lửa đương nồng” của Kiều khi cho rằng khoảng thời gian hạnh phúc sao ngắn ngủi, thì đối với Từ Hải 6 tháng an yên bên mỹ nhân mà công danh vẫn dậm chân tại chỗ là quá dài. Vậy nên chàng đã nhanh chóng “thoắt đã động lòng bốn phương”. Một từ “thoát” đã đủ bộc lộ được quyết tâm, sự dứt khoát của Từ hải với việc ra đi lập nghiệp, bên cạnh đó mấy chữ “động lòng bốn phương” lại diễn tả cái tráng chí cao đẹp mang tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Thêm hai chữ “trượng phu” lại càng bộc lộ niềm yêu, niềm trân trọng của Nguyễn Du đối với Từ Hải, bộc lộ ước mơ, lý tưởng của tác giả về một người anh hùng toàn diện hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao đẹp, tráng chí bốn phương, có hoài bão lớn, thực hiện được công bằng luân lý của xã hội,… Bên cạnh đó tầm vóc và suy nghĩ rộng lớn của Từ Hải còn bộc lộ thông qua cái cách mà chàng hướng ánh mắt ra xa “trông vời trời bể mênh mang”, thể hiện khát vọng mãnh liệt vươn ra thế giới, đồng thời hành động cực kỳ dứt khoát, mau lẹ “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”, lại càng thể hiện quyết tâm làm nghiệp lớn của con người phi thường.

Đối với những lời xin đi theo nâng khăn sửa túi của Thúy Kiều, mỹ nhân bầu bạn, Từ Hải lại không cho đó là chuyện nên làm, mà nhẹ nhàng khuyên giả, đánh thức sự thấu tình đạt lý trong Kiều khi hỏi nàng rằng “Tâm phúc tương tri/Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”. Trước là trách Kiều vốn đã là vợ chồng bấy lâu, thấu hiểu lẫn nhau nhưng vẫn chưa thật thấu hiểu lòng mình, vẫn không thoát khỏi tâm trạng thường tình nhi nữ, để tình cảm lấn át lý trí, cản trở công danh. Nhưng đồng thời cũng là lời động viên an ủi Kiều hãy nghĩ thông suốt, để sao cho vợ chồng đồng lòng, nàng làm hậu phương, cho chàng thành chí lớn. Sau đó tiếp tục giải thích, bộc lộ tráng chí của bản thân qua những câu thơ:

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Như vậy có thể thấy rằng lần dứt áo ra đi này của Từ Hải là quyết tâm phải làm nên công danh vĩ đại, những từ “mười vạn tinh binh”, “dậy đất”, “rợp đường”, đều thể hiện ước mơ về những chiến công hiển hách, lẫy lừng, gợi tả khí thế hùng tráng, huy hoàng của người anh hùng. Bên cạnh đó “làm cho rõ mặt phi thường” lại thể hiện sự tự ý thức về khả năng, tầm vóc phẩm chất xuất chúng của Từ Hải. Đồng thời câu “Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia” là lời hứa của Từ Hải dành cho Thúy Kiều, để làm yên lòng nàng, mong nàng cứ an phận một lòng chờ mình lập công danh sự nghiệp. Hơn thế nữa ta cũng thấy Từ Hải là một người biết trông xa nghĩ rộng, khi chàng nói với Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu”

Bản thân Từ Hải ý thức được tầm vóc và tài năng của bản thân, đồng thời cũng nhận định một cách khách quan rằng hiện tại chàng đang không có gì trong tay, việc vướng bận nữ nhi thường tình chỉ càng khiến chàng phân tâm. Thêm vào đó Thúy Kiều phạn liễu yếu đào tơ việc theo sóc, bôn ba không phải là chủ ý hay, nàng làm sao chịu được cảnh “bốn bể không nhà”, lang thang đây đó, chinh chiến nhiều nơi, đến lúc ấy không chỉ nàng khổ, mà bản thân Từ Hải cũng không thể yên lòng làm nghiệp lớn. Vậy nên lựa chọn tốt nhất là để Kiều yên vị ở nhà chờ chàng, làm hậu phương vững chắc, để Từ Hải càng có thêm ý chí quyết tâm phấn đấu, không phụ lòng thiên hạ, cũng chẳng phụ lòng giai nhân. Điều đó bộc lộ qua lời hứa hẹn “Đành lòng chờ đó ít lâu/Chầy chăng là một năm sau vội gì”, bộc lộ lòng quyết tâm, ý chí mạnh mẽ nhanh chóng làm nên công danh sự nghiệp, chứ quyết không lằng nhằng dây dưa.

Sau khi bộc bạch, khuyên nhủ, Từ Hải từ biệt Thúy Kiều và dứt áo ra đi, câu thơ “Gió mây bằng đã đến kỳ dặm khơi” là dụng ý thấu đáo của tác giả về công danh lẫy lừng của tác giả về sau. Việc lấy con chim bằng – loài chim cưỡi gió đạp sóng muôn nghìn dặm để diễn tả vẻ oai hùng, phi thường của người anh hùng Từ Hải, thể hiện sự trân trọng, ca ngợi tráng chí mạnh mẽ, kỳ vĩ sánh ngang tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Đây là lúc chim bằng quạt cánh bay lên cùng mây gió, cũng là lúc người anh hùng ra đi tạo lập công danh hiển hách, vang danh thiên hạ, không phụ lòng núi sông.

Hình tượng Từ Hải của Nguyễn Du so với Từ Hải trong Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân hay trong truyện Vương Thúy Kiều của Dư Hoài là một cải tiến nghệ thuật mới mẻ và đầy ý vị. Nguyễn Du đã khéo léo hình tượng hóa nhân vật Từ Hải trở thành một người anh hùng với những vẻ đẹp lý tưởng, toàn diện, có giấc mộng kiến lập sự nghiệp vĩ đại, sự dứt khoát trong cách cư xử, sự thấu tình đạt lý rất phù hợp và xứng đôi với người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều. Từ đó mối tình Kiều – Hải càng trở nên đẹp đẽ, tô đậm tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du trong tác phẩm, ít nhất thì Vương Thúy Kiều bất hạnh nhưng cũng có lúc được hạnh phúc, được nhận những thứ xứng đáng với mình, cuộc đời nàng cũng có những lúc tươi đẹp thăng hoa, dẫu rằng để được như thế cái giá nàng phải trả trước và sau là quá đắt đỏ.

5.Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, mẫu số 5 (Chuẩn):

Nguyễn Du là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm rất nổi tiếng, trong đó phải kể đến tác phẩm nổi bật nhất là “Truyện Kiều”. Tác phẩm là lời phê phán xã hội phong kiến đương thời của Nguyễn Du đồng thời cũng là nơi gửi gắm mơ ước về một xã hội công bằng với người anh hùng xứng đáng là bậc trượng phu. Khát vọng ấy của Nguyễn Du được thể hiện qua nhân vật Từ Hải, đặc biệt là qua trích đoạn “Chí khí anh hùng”.

Sau những biến cố thăng trầm đầu tiên của cuộc đời, Kiều những tưởng được giải thoát khi nàng bắt gặp Thúc Sinh. Thế nhưng với tính cách nhu nhược yếu đuối, Thúc Sinh đã không thể mang cho nàng một cuộc sống bình yên. Chính lúc này, nàng lại một lần nữa rơi vào tay của những kẻ buôn người Bạc Bà, Bạc Hạnh và trở lại kiếp kĩ nữ lầu xanh. Và cuộc đời Kiều đã kịp rẽ hướng khi nàng bắt gặp Từ Hải. Tài năng, nhân cách cùng nhan sắc của nàng đã khiến chàng Từ vô cùng khâm phục. Vậy nên chàng đã giải thoát nàng khỏi chốn ô nhục và từ đó cùng nàng sánh duyên bên nhau:

“Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”

Chẳng bằng lòng với cuộc sống hiện tại, Từ Hải đã quyết chí ra đi để dựng lên nghiệp lớn sau nửa năm mặn nồng cùng nàng Kiều tài sắc. Đoạn trích chỉ với mười tám câu thơ nhưng đã cho ta thấy được ý chí, lý tưởng lớn lao mà Từ Hải muốn gây dựng, đồng thời cũng cảm nhận được mơ ước lớn lao của Nguyễn Du về một người anh hùng chân chính.

Mở đầu đoạn trích, người ta như thấy được cuộc tình vô cùng lãng mạn của đôi trai tài gái sắc. Thế nhưng, sau hình ảnh đầy lãng mạn ấy lại là mở đầu của một cuộc chia lý vì chí lớn:

“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

“Nửa năm” chẳng phải là khoảng thời gian dài, nhưng nửa năm đó, Kiều và Từ Hải đã vô cùng gắn bó, vô cùng “mặn nồng”. Từ “hương lửa” được Nguyễn Du sử dụng ở đây như một hình ảnh ước lệ của tình yêu. “Hương lửa đương nồng” tức là tình cảm của đôi trai tài gái sắc đang rất mặn nồng, tưởng chừng như chẳng thể xa cách. Thế nhưng ngay trong tình yêu, chàng trai Từ Hải cũng luôn nung nấu ý định ra đi vì lý tưởng của mình. Ở đây, Nguyễn Du đã gọi Từ Hải là “trượng phu” – một người đàn ông có tài năng, đức độ, có chí lớn. Vậy nên, chẳng ngạc nhiên khi người “trượng phu” ấy đã “động lòng” chuẩn bị ra đi cho lý tưởng của mình. Chàng muốn được vùng vẫy, muốn được thỏa chí trong “trời bể mênh mang”, muốn được thỏa sức mà tung hoành mà dựng lên nghiệp lớn. Hình ảnh “trời bể mênh mang” như muốn khẳng định khát khao của chàng. Chính vì vậy, khi quyết chí ra đi, chàng vô cùng dứt khoát “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Quyết định nhanh chóng, trong dứt khoát của chàng “thoắt đa” đã được hiện thực hóa bằng hành động quyết liêt. Một mình cùng một thanh gươm, một con ngựa tốt, chàng quyết chí ra đi tìm kiếm lý tưởng cho mình một cách vô cùng kiên định. Tư thế của chàng vô cùng oai phong, lẫm liệt, hành động dứt khoát, xứng danh với danh từ “trượng phu” mà Nguyễn Du đã đặt cho chàng. Không những thế, ông còn đặt chàng Từ vào một tư thế sánh ngang với trời bể mênh mang, với trời đất để khẳng định tầm vóc của chàng. Nguyễn Du vẽ lên một người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ với lý tưởng to lớn, sẵn sàng ra đi vì lý tưởng đó.

cam nhan ve doan chi khi anh hung 2

Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng có dàn ý chi tiết

Bốn câu thơ đầu tuy ngắn ngủi nhưng đã cho ta thấy cảnh chia ly dứt khoát trong mặn nồng của Kiều và Từ Hải, đồng thời cũng chỉ ra tư thế hiên ngang, oai phòng, ý chí quật cường, hào hừng của người anh hùng mang tầm vóc vụ trụ này. Bằng những hình ảnh ước lệ, Nguyễn Du như muốn khẳng định ước mơ về người anh hùng thực hiện công lý của mình.

Sau những lời chia tay quyết liệt để ra đi của chàng Từ, Kiều đã tâm sự lòng mình cùng chàng:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng không bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?”

Kiều chỉ một lòng một dạ được đi theo chàng, bởi nàng không muốn sống trong cảnh cô đơn, lạc lõng như trước. Chữ “tòng” mà nàng nói cũng là một trong những lễ nghi luân lý “phận gái tam tòng” của Nho giáo. Nó vô cùng hợp tình hợp lý. Thế nhưng, đáp lại lời Kiều, Từ đã nói rằng:

“Từ rằng: tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Đối với chàng, Kiều không chỉ là người bạn đời, người chàng thương, yêu mến, mà là người bạn tâm giao, tri kỉ của chàng. Những lý tưởng của chàng chắc chắn nàng là người hiểu rõ nhất. Chính vì vậy, Từ Hải mới mong muốn nàng “thoát khỏi nữ nhi thường tình”, thoát khỏi những suy nghĩ thông thường của người phụ nữ mà hiểu và ủng hộ cho chàng. Vậy mà sao nàng vẫn chưa chịu hiểu cho chàng? Chàng có ý trách nàng. Chàng ra đi nhưng sẽ trở về cùng vinh quang chiến thắng để đường hoàng “rước nàng nghi gia”

“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp trời
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”

Chàng ra đi thực hiện lý tưởng, nghiệp lớn, dựng binh nghiệp, trở về với tiếng chiêng, bóng cờ rợp trời. Lý tưởng đó của chàng một phần vì chàng mà một phần cũng vì nàng. Với cơ nghiệp ấy, cùng vinh quang ấy, chàng sẽ rước nàng làm vợ chính thức của mình. Để thực hiện điều lớn lao ấy sẽ phải trải qua biết bao khó khăn, “bốn bể không nhà”, người con gái mong manh như Kiều sao có thể chịu đựng được những thử thách nhường ấy? “Bón bể không nhà” cũng thể hiện ý chí tung hoành ngang dọc của Từ Hải. Lời chàng nói ra vừa là lời an ủi vừa là lời hứa hẹn với nàng một năm sau sẽ trở lại.

Những lời tâm sự của Từ Hải với Kiều không chỉ đơn thuần là lời vợ chồng hay tình nhân nói với nhau mà đó là lời tâm sự của những người “tâm phúc tương thông”, của người trượng phu với tri kỉ của mình. Những lời đó đã khẳng định rằng Từ Hải quả là một người anh hùng với khí chất hơn người, chí hướng lớn lao. Đó quả thật là người anh hùng đầy khát vọng, ý chí kiên cường đúng như những gì Nguyễn Du mong mỏi.

Kết thúc đoạn trích là hình ảnh quyết chí ra đi vì nghiệp lớn của Từ Hải:

“Quyết lời dứt áo ra đi
Cánh bằng tiện gió cắt lìa dặm khơi”

Chàng vừa dứt lời, liền ra đi, vô cùng kiên quyết và dứt khoát, không chần chừ, không để tình cảm lung lạc ý chí của mình. Tính cách này chúng ta đã từng chứng kiến khi chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, vô cùng dứt khoát và quyết liệt. Chàng ra đi được ước lệ ví von như cánh chim bằng, đặt trong không gian to lớn “dăm khỏi”, ta thấy hình ảnh chàng Từ như tượng trưng cho người anh hùng với lý tưởng cao đẹp, phi phàm, mang tầm vóc vũ trụ.

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã khắc họa thật rõ nết hình ảnh người anh hùng Từ Hải “đội trời đạp đất ở đời”. Bằng bút pháp ước lệ tài hao của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được ý chí lớn lao của người anh hùng Từ Hải. Ý chí, lý tưởng ấy thật mãnh kiệt, kiên trung và to lớn, khẳng định vị thế của một người anh hùng mang tầm vóc của vũ trụ.

Đoạn trích đã vẽ lên hình ảnh người trượng phu quyết chí ra đi vì chí lớn, vì lý tưởng của mình với lời hứa hẹn trở về vinh quang. Nó thật đúng với ước mong của Nguyễn Du về một người anh hùng sẽ dám đứng lên chống lại cường quyền, mang lại hạnh phúc và đòi lại công bằng trong xã hội.

6. Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng, mẫu số 6:

Từ xưa, chí nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” đã được đề cao, trong văn học cũng rất nhiều tác giả viết về chí khí đó. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông đã xây dựng hình tượng người anh hùng Từ Hải với khí phách kiên cường, hiên ngang luôn làm nên việc lớn. Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” đã thể hiện vẻ đẹp chí khí phi thường, mưu cầu nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải quyết tâm dứt áo ra đi.

Đọc “Truyện Kiều”, ta biết được Kiều hai lần bị vào lầu xanh, số phận đã đưa đẩy Kiều hết lần này đến lần khác khiến nàng rơi vào tuyệt vọng. Nhưng lần thứ hai Kiều bị đẩy vào lầu xanh thì may mắn thay Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa nàng ra ngoài thoát khỏi cảnh ô nhục này. Từ Hải đã giúp nàng ” Báo ân báo oán” với những kẻ trước đây đã hãm hại nàng cũng như với người đã giúp nàng. Hai người đã có cuộc sống hạnh phúc cùng nhau. Nhưng với người đàn ông có bản lĩnh lớn, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm vậy, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích ” Chí khí anh hùng” được trích từ câu 2213 đến câu 2230 trong tác phẩm.

Trước tiên, bốn câu thơ đầu nêu lên bối cảnh và lí do dẫn đến cuộc chia ly giữa Kiều và Từ Hải:

” Nửa năm đương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Câu thơ đầu tiên cho ta thấy được Kiều và Từ Hải mới sống với nhau nửa năm với cuộc sống vô cùng êm đềm, tình yêu giữa hai người nồng nàn, say đắm. Nửa năm là khoảng thời gian ngắn hai người sống bên nhau, đây có lẽ là thời gian Kiều được sống bình yên và hạnh phúc nhất trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Bởi trước đó, dù Kiều cũng từng sống với Thúc Sinh nhưng nàng chỉ làm vợ lẽ. Sự yêu thương của Thúc Sinh không mang lại cho nàng sự an toàn trọn vẹn bởi Kiều vẫn bị Hoạn Thư – vợ cả hành hạ. Nhưng sau nửa năm đó Từ Hải lại có ý định muốn ra đi thực hiện lí tưởng. “Trượng phu” là chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng, tác giả cũng muốn tỏ lòng khâm phục và ca ngợi Từ Hải. “động lòng bốn phương” chính là chí hướng mà Từ Hải đang muốn tung hoành thiên hạ. Đó cũng chính là chí lớn của người đàn ông sống trong thời trung đại, mong muốn phương trời tự do, vùng vẫy khắp nơi, quyết lập sự nghiệp phi thường. Từ Hải đã vô cùng dứt khoát và cuộc sống vợ chồng không thể giữ chân được chàng. Tư thế của chàng khi ra đi chính là “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” chàng một mình, một gươm, một ngựa đi liền một mạch, dứt khoát. Chàng mang tư thế của con người tự tin, làm chủ phương trời tự do. Tác giả đã đặt nhân vật trong sự tương phản với không gian rộng lớn “trời bể mênh mang” với hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” chỉ một mình. Hình ảnh con người hiện lên không hề nhỏ bé mà sánh ngang cùng vũ trụ rộng lớn. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cuộc sống hạnh phúc của Kiều và Từ cùng với đó là chí lập công danh của người anh hùng.

cam nhan ve doan chi khi anh hung 1

Những bàiCảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng hay nhất

Mười hai câu thơ tiếp theo chính là cuộc đối thoại giữa Kiều và Từ Hải để qua đó ta cũng thấy tính cách của anh hùng khi ra đi vì sự nghiệp lớn. Câu nói của Kiều:

” Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,”
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

đã thể hiện tâm trạng cũng như tâm lí của Kiều không chỉ yêu mà còn hiểu, khâm phục kính trọng Từ. Cụm từ “Phận gái chữ tòng” ở đây chính là quan niệm phong kiến thời xưa: “Phu xướng phụ tùy, xuất giá tòng phu”, Kiều đã nguyện gắn bó cuộc đời của nàng với Từ Hải. Thúy Kiều ý thức được bồn phận của người vợ mà cũng thể hiện tình yêu với chồng. Nàng muốn níu giữ tình yêu đó mà quyết một lòng đi theo chồng. Trước mong muốn đó của Kiều, Từ đã nói rằng:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”

Từ đã nói rằng, bây giờ hai người đã hiểu lòng nhau, coi nàng là người tri âm, tri kỉ của mình. Từ Hải khuyên Kiều nên vượt lên thói tầm thường nhi nữ và chàng đưa ra lời hứa của mình: Bao giờ mười vạn tinh binh, tiếng chiêng, bóng tinh rợp đường để đón nàng thì mới thỏa mãn. Từ đã đưa ra một viễn cảnh vô cùng tốt đẹp và hạnh phúc giữa hai người. Chàng muốn làm nên sự nghiệp lớn xuất chúng và hứa sẽ trở về để đón nàng “rước nàng nghi gia”. Mong nàng hãy chờ đợi một năm bởi chàng không biết là sẽ đi đâu mà nàng đi theo sẽ càng vướng bận. Chàng không muốn Kiều vất vả vì mình.

Hai câu thơ cuối thể hiện sự dứt áo ra đi của Từ Hải:

” Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”

Từ Hải mang theo thái độ và cử chỉ vô cùng dứt khoát, mạnh mẽ không chần chừ, do dự. Viễn cảnh không gian ra đi của Từ qua hình ảnh “gió mây” và “dặm khơi” để gợi không gian rộng lớn, kì vĩ, tự do. Hình ảnh “chim bằng” tượng trưng cho người anh hùng có lí tưởng cao đẹp, phi thường sánh ngang cũng tầm vóc vũ trụ. Câu thơ đã thể hiện ước mơ về người anh hùng của Nguyễn Du với bản lĩnh, khí phách phi thường.

Qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hình tượng người anh hùng Từ Hải với khát vọng và chí lớn của bậc nam nhi. Đọc những câu thơ trong đoạn trích, người đọc hiểu và khâm phục chí làm trai của nam nhi thời trung đại.

—————–HẾT——————-

Chí khí anh hùng là đoạn trích đặc sắc trong đại kiệt tác Truyện Kiều, khám phá giá trị và những đặc sắc của đoạn trích, bên cạnh bàiCảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng, các em có thể tham khảo thêm: Soạn bài Chí khí anh hùng, Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng, Phân tích khát vọng và lí tưởng anh hùng của Từ Hải qua đoạn trích Chí khí anh hùng, Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button