Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí
Phân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí
I. Dàn ý Phân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí (Chuẩn)
1. Mở bài
– Trong suốt những năm tháng chiến đấu khốc liệt, giữa những người lính chiến đã hình thành một thứ tình cảm hết sức đặc biệt và thiêng liêng ấy là tình đồng chí.
– Và thứ tình cảm ấy đã được Chính Hữu xây dựng một cách rất giản dị, hồn nhiên và cũng đầy xúc cảm qua bài thơ Đồng chí.
2. Thân bài
* Tác giả:
– Chính Hữu (1926-2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, gia nhập vào Trung đoàn Thủ đô năm 1946, cuộc đời của ông trải dọc suốt chiều dài của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
– Các sáng tác của ông chủ yếu viết về đề tài chiến tranh và người lính, thơ của Chính Hữu bộc lộ được những cảm xúc chân thành mãnh liệt, ngôn ngữ giàu hình ảnh và giọng điệu phong phú…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí tại đây.
II. Bài văn mẫuPhân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí (Chuẩn)
Thật may mắn khi chúng ta được sinh ra và lớn lên khi đất nước đã không còn lửa đạn chiến tranh, không phải hứng chịu những nỗi đau chia li, những mất mát khủng khiếp mà chiến tranh đem lại trong những tháng cũ. Thế nhưng có những bài ca không bao giờ quên, có những năm tháng chiến tranh không bao giờ phai mờ trong ký ức của nhân dân Việt Nam. Khi nghe Tổ quốc gọi tên từ trong bom rơi, đạn xé, với trái tim yêu nước nồng nàn, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã từ giã quê hương, lên đường ra chiến tuyến, chẳng hẹn ngày trở về, chỉ hẹn ngày đất nước được bình yên. Họ đã trở thành những người lính kiêu hùng, để rồi trong suốt những năm tháng chiến đấu khốc liệt, giữa những người lính chiến đã hình thành một thứ tình cảm hết sức đặc biệt và thiêng liêng ấy là tình đồng chí. Tuy không phải ruột thịt nhưng chẳng khác nào tay chân, gian khổ nào cũng cùng nhau vượt qua, nỗi đau nào cũng cùng nhau gánh chịu. Và thứ tình cảm ấy đã được Chính Hữu xây dựng một cách rất giản dị, hồn nhiên và cũng đầy xúc cảm qua bài thơ Đồng chí.
Chính Hữu (1926-2007), tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, gia nhập vào Trung đoàn Thủ đô năm 1946, cuộc đời của ông trải dọc suốt chiều dài của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, được trực tiếp cầm súng chiến đấu nên ông rất am hiểu tâm tư và cuộc đời của người lính, khiến cho các sáng tác của ông trở nên chân thực và giàu cảm xúc hơn cả. Các sáng tác của ông chủ yếu viết về đề tài chiến tranh và người lính, thơ của Chính Hữu bộc lộ được những cảm xúc chân thành mãnh liệt, ngôn ngữ giàu hình ảnh và giọng điệu phong phú.
Đồng chí (1948), in trong tập Đầu súng trăng treo, là tác phẩm đã đánh dấu tên tuổi của Chính Hữu trong thi đàn Việt Nam, là một trong những tác phẩm thành công nhất của Chính Hữu và cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho thi ca chống Pháp giai đoạn 1946-1954. Nhan đề “Đồng chí” xét về nghĩa đen là những người có cùng chí hướng lý tưởng, ngoài ra còn là sự khám phá ngợi ca một tình cảm thiêng liêng sâu nặng của một người lính Cách mạng.
Kháng chiến là một cuộc hội ngộ lớn của rất nhiều những con người từ khắp mọi miền Tổ quốc, vì một mục đích chung đó là chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Từ những con người vốn chẳng thân quen, ruột thịt mà có thể khiến cho họ có thể hy sinh sống chết vì nhau thì chỉ có thể là tình đồng chí. Thứ tình cảm ấy được xây dựng trên nhiều cơ sở, đầu tiên phải kể đến những điểm chung về xuất thân và hoàn cảnh.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ đều đến từ những làng quê nghèo khổ, đất đai không nhận được sự ưu ái của tạo hóa, nơi anh thì “nước mặn đồng chua”, chỗ tôi thì “đất cày lên sỏi đá”. Họ đều là những người nông dân ra đi từ những nơi nghèo khó, vốn sống trong cảnh lam lũ đã lâu, dù khác biệt về địa lý thế nhưng lại chung một hoàn cảnh “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, quanh quẩn bên góc ruộng, con trâu. Chính điều đó đã gợi lên không khí cách mạng của thời đại, công cuộc đổi đời vĩ đại của giai cấp nông dân, lần đầu tiên trong lịch sử họ đứng lên làm chủ đất nước làm chủ cuộc đời mình.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Họ còn có chung với nhau một lý tưởng cách mạng, một lòng yêu nước nồng nàn, tất cả đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ, được ở cùng một chiến tuyến chống lại kẻ thù chung, ngày đêm sinh tử sát cánh bên nhau. Như vậy từ những con người xa lạ họ đã gắn kết với nhau một cách mật thiết, gắn bó, điều ấy được Chính Hữu thể hiện trong từ “đôi người”, cứ như vậy hai cư sở trên đã trở thành tiền đề cho tình đồng chí mãi về sau này.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!”
Cuối cùng ở họ cò có một cơ sở nữa ấy là họ có chung một nhiệm vụ chiến đấu, chung nhau một cuộc đời quân ngũ, chung một hoàn cảnh sinh hoạt, từ đó dẫn đến sự sẻ chia ấm áp. Dẫu biết rằng tấm chăn vốn mỏng manh chẳng thể nào đủ ấm áp cho cả hai người, thế nhưng chính tình đồng chí thật thiêng liêng, cao cả đã sưởi ấm thân thể và tâm hồn của những người lính chiến, cũng xóa đi mọi khoảng cách, khiến họ trở thành những người tri kỷ trong cuộc đời nhau. Từ xa lạ, những điểm tương đồng giữa những người lính cách mạng đã đượm dần lên để trở thành tình đồng chí son sắt, nồng nàn.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Đã là đồng chí, đồng đội thế nên họ rất thấu hiểu nỗi lòng, hoàn cảnh của đồng đội. Nhân vật trữ tình nói về tâm sự của người đồng đội mà như nói về chính bản thân mình. Thấu hiểu về cảnh ngộ, về mối bận lòng của nhau, về vẻ đẹp của lý tưởng của lý trí lên đường, của lòng yêu nước, của tình cảm cách mạng khi Tổ quốc lâm nguy. Họ sẵn sàng hy sinh những hạnh phúc riêng tư của mình, hy sinh, mặc kệ cả những tài sản quý giá nhất cuộc đời người nông dân ấy là ruộng nương, căn nhà. Thấu hiểu cả nỗi nhớ quê hương luôn khắc khoải trong tâm hồn người lính. Từ sự thấu hiểu này, người lính cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp hiện lên với một vẻ đẹp mạnh mẽ nhưng không vô tâm, ý chí mãnh liệt dứt khoát nhưng không lạnh lùng.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Cao hơn cả sự thấu hiểu ấy là sự đồng cam cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ, cùng nhau trải qua những cơn sốt rét rừng, vốn từng là nỗi ám ảnh của quân đội ta trong suốt những năm tháng kháng chiến. Đằng sau hiện thực những cơn sốt run người là một sức gợi lớn, đó là sự lo lắng quan tâm lẫn nhau của những người lính chiến. Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn gian khổ, áo rách vai, quần thì vá, chân không giày, đặc biệt là cái giá lạnh của mùa đông nơi núi rừng, những căn bệnh quái ác sẵn sàng ập đến. Thế nhưng sau tất cả người lính chiến vẫn có thể nở một nụ cười, điều ấy thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, ngợi ca sự quan tâm đùm bọc lẫn nhau giữa những người đồng chí, đoàn kết để tạo nên sức mạnh của tập thể, vượt lên tất cả những khó khăn, thiếu thốn, tưởng chừng không thể vượt qua. Niềm yêu thương, sự gắn bó được thể hiện trong hình ảnh cuối đoạn “tay nắm lấy bàn tay”, chất chứa biết bao yêu thương, trìu mến, lấy sự thiếu thốn, gian khổ để tô đậm thêm những tình cảm cao đẹp trong tinh thần giữa những người đồng chí, sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn. Đồng thời còn chứa đựng những khao khát được kề vai sát cánh với những người đồng đội thân yêu. Chính những tình cảm sâu nặng ấy đã nâng đỡ bước bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ cuối cùng được coi là những câu thơ hay nhất của toàn bài thơ, ca ngợi sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí. Nó được xây dựng trên một không gian, thời gian rất đặc biệt, rừng đêm lạnh lẽo, hoang vu, mờ mịt, trong không khí căng thẳng trước một trận chiến ác liệt sắp bắt đầu. Thế nhưng hình tượng người lính vẫn xuất hiện trong một tư thế hoàn toàn chủ động, đặc biệt tâm hồn họ vẫn vương chút lãng mạn với vẻ đẹp của vầng trăng, họ vẫn ung dung, thanh thản lạ kỳ. Có được những điều ấy là nhờ họ đã tựa vào một nguồn sức mạnh vững chãi chính là tình đồng đội, được “đứng cạnh bên nhau”, được chiến đấu cùng nhau, được sát cánh cùng nhau sinh tử đến những giây phút cuối cùng. Tình đồng chí đã trở thành điểm tựa cuối cùng và vững vàng nhất của người lính. Hình ảnh “đầu súng trăng treo”, trước hết xuất phát từ thực tiễn chiến đấu , cũng là một hình ảnh giàu sức gợi, gợi những liên tưởng phong phú, cây súng là chiến tranh khắc nghiệt, là người chiến sĩ, còn vầng trăng là biểu tượng của hòa bình và vẻ đẹp lãng mạn, tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh còn gợi những vẻ đẹp của tình đồng chí trong sáng, giúp tâm hồn người lính được thư thái, điềm tĩnh giữa lúc cam go khốc liệt, đồng thời cũng gợi lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vẻ đẹp của tâm hồn dân tộc Việt Nam, bàn tay giữ chắc cây súng để bảo vệ hòa bình của đất nước.
Đồng chí của Chính Hữu đã khám phá và ngợi ca một tình cảm đẹp giữa những người lính chiến ấy là tình đồng chí, đồng đội, qua đó xây dựng thành công hình tượng người lính thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp. Nghệ thuật nổi bật là lối miêu tả chân thực, tự nhiên giàu sức gợi, từ ngữ hình ảnh cũng rất dung dị nhưng giàu ý nghĩa biểu tượng, giọng thơ tự nhiên cảm xúc dồn nén chân thành.
———————HẾT———————
Cùng với bàiPhân tích bài thơ Đồng chí để thấy được những biểu hiện cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí, để củng cố kiến thức bài học, các em có thể đọc thêm:Thuyết minh về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, Vẻ đẹp của tình đồng chí được thể hiện trong bài thơ Đồng chí, Cảm nhận về bài thơ Đồng chí, Cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính.