Lớp 11

So sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt

Đề bài: So sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt

so sanh doan ket cua hai tac pham chi pheo va vo nhat

So sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt

I. Dàn ýSo sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt

1. Mở bài

– Sơ lược về nền văn học Việt Nam trước cách mạng.
– Sự khác biệt trong phong cách sáng tác của Nam Cao và Kim Lân trong đoạn kết của Chí Phèo và Vợ Nhặt.

2. Thân bài

a. Đoạn kết của Chí Phèo:

– Một số những nét chính về cuộc đời và những bi kịch của Chí Phèo.
– Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, để kết thúc chuỗi ngày tăm tối, sa đọa của mình, đánh dấu sự thức tỉnh nhân tính trong con người Chí, đồng thời bộc lộ khát khao được làm người lương thiện cùng cực, đến đau đớn đến mức phải lấy cái chết để chứng minh.
– Cái chết của Chí Phèo cũng là một chi tiết nhân văn, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến tàn ác, đẩy con người ta vào chỗ cùng đường mạt lộ.
– Tố cáo chế độ phong kiến thực dân thối nát và tàn bạo, khiến nhiều kiếp người khốn khổ phải lao đao, phải rơi vào bi kịch và tiêu biểu đó chính là nhân vật Chí Phèo
– Cuối truyện Nam Cao để lửng một câu: “Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”.
=> Vòng luẩn quẩn, Chí Phèo chết đi nhưng cái bi kịch của Chí Phèo vẫn còn đó, vẫn còn đeo bám những con người đang sống và sẽ sống trong tương lai. Đó chính là số phận tăm tối và bế tắc của người nông dân ở chế độ cũ.
– Kết truyện như vậy dễ dàng mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ, liên tưởng và đặc biệt có ấn tượng sâu sắc không chỉ về tấn bi kịch cuộc đời của nhân vật mà còn khiến độc giả phải trăn trở về một lối thoát cho những con người khốn khổ, phải đồng cảm sâu sắc với họ.

b. Đoạn kết của Vợ nhặt:

– Chi tiết cuối “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, là một chi tiết đắt giá, nó trước hết là gợi ra cái cảnh nạn đói thê thảm năm 44-45, sau là gợi ra sự hiện diện của cách mạng đã về với những người nông dân cùng khổ.
– Ở trong Tràng và gia đình Tràng đã dần có nhận thức, giác ngộ về cách mạng. Họ hiểu rằng có lẽ chỉ có cách mạng về thì người nông dân mới thoát khỏi cái cảnh khốn đốn, cầm cự trước nạn đói do lũ phát xít tàn ác gây ra.
– Thể hiện lòng trân trọng những khát khao sống, khát khao thay đổi cuộc đời đang kề cận bên bờ vực thẳm, là niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng. Thay vì luẩn quẩn bế tắc trong cái bi kịch đói kém, thì chính họ lại tự giải thoát cho mình, bản thân Tràng nghĩ đến việc phá kho thóc, nghĩ đến việc làm cách mạng, hướng về lá cờ đỏ sao vàng.
=> Sự vận động tất yếu của xã hội loài người theo xu hướng tích cực.

c. Bàn luận:

– Nhìn chung điểm giống nhau của hai tác phẩm chính là tính hiện thực sâu sắc khi phản ánh một cách rất rõ nét về cuộc đời và số phận đầy những bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ.
– Khác: Kim Lân tập trung nhiều vào giá trị nhân văn, nhân đạo bằng cách xây dựng cho nhân vật các lối thoát hợp lý, tác giả miêu tả hiện thực để nhấn mạnh cái giá trị nhân văn mà mình muốn truyền tải. Còn Nam Cao thì tập trung vào tính hiện thực, tố cáo xã hội và lột tả số phận bi kịch của con người, lấy giá trị nhân văn, tình người trong tác phẩm để nhấn mạnh và làm rõ bi kịch của nhân vật.

3. Kết bài

– Nêu cảm nhận cá nhân.

II. Bài văn mẫuSo sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt

Nền văn học Việt Nam giai đoạn trước cách mạng đã làm nổi bật nên nhiều cái tên sáng giá trong làng văn chương hiện thực với các tác phẩm giá trị mang đậm dấu ấn của một thời đại không thể nào quên. Trong số đó nổi bật nhất của nền văn học hiện thực phê phán này là sự góp mặt cây bút xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Hồng,… Và trong mảng đề tài viết về người nông dân thì sẽ là thiếu sót lớn khi để lỡ hai cái tên Kim Lân và Nam Cao với một Vợ nhặt và Chí Phèo, vừa hiện thực đau đớn, xót xa cho những kiếp người cùng khổ, vừa mang đậm tính nhân văn sâu sắc, ở đó ta thấy tình người dẫu bị cái đói, cái nghèo vùi dập nhưng nó vẫn chưa từng và chưa bao giờ đánh mất cái bản ngã khiến con người ta thức tỉnh và có hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy cùng viết về người nông dân, thế nhưng Nam Cao dường như tập trung viết về cái hiện thực khốc liệt và những chi tiết về tình người cao cả chính là cái để đẩy bi kịch của nhân vật lên cao nhất, để lột tả sự tàn ác của chế độ cũ với con người. Còn ngược lại ngòi bút của Kim Lân lại chan chứa tình cảm hơn, giọng văn cũng nhẹ nhàng và thấm đẫm giá trị nhân văn, hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho các nhân vật. Sự khác biệt ấy được thể hiện rất rõ trong đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và Vợ nhặt – Kim Lân.

Trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, nhân vật Chí Phèo chính là điển hình cho số phận bi kịch của bi kịch. Cuộc đời Chí từ khi sinh ra đã bất hạnh vì bị bỏ rơi, phải sống kiếp mồ côi 20 năm, đến khi lớn khôn anh mang một tấm lòng lương thiện bước vào đời, thế nhưng cũng không được như ý nguyện. Cuộc đời anh gần như khép lại bởi cái tính gian dâm của bà ba và cái thói ghen tuông đỏ mắt của Bá Kiến, anh bước vào tù. Cái nhà tù khốn nạn của chế độ thực dân phong kiến, bước vào làm người lương thiện nhưng bước ra thì thành kẻ lưu manh. Chí Phèo trượt dài trên con đường tội lỗi, làm tay sai cho chính kẻ đã hủy hoại đời mình, bán rẻ nhân cách lấy mấy xu bạc sống qua ngày, cùng với những cơn say bất tận và những tiếng chửi không ai buồn đáp. Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tiếng chửi của hắn được xếp ngang với tiếng sủa của mấy con chó dữ canh cổng cho nhà Bá Kiến, đớn đau và xót xa đến tận cùng. Thế rồi đến khi đã bước qua đến bên kia con dốc của cuộc đời, thì Thị Nở đến với hắn như một món quà của tạo hóa và cũng lại là một bi kịch khác của Chí. Dường như cuộc đời thấy bi kịch bị tha hóa, bi kịch bị lưu manh hóa đối với Chí Phèo là chưa đủ, nên vẽ thêm cho hắn một bi kịch khác, bi kịch bị từ chối quyền làm người. “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”, câu nói cay nghiệt mà bà cô của Thị Nở nói với thị đã làm Chí sực tỉnh khỏi cái giấc mơ tốt đẹp. Đó chính là lời của cả cái xã hội ngoài kia, họ đã hoàn toàn chặn đứng ước mơ làm lại cuộc đời của Chí Phèo, ước mơ được làm người lương thiện của hắn. Cuối cùng nhân tính trong con người của anh trai trẻ đã thức dậy sau hơn 20 năm bị cái tàn ác, cái lưu manh vùi dập. Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, để kết thúc chuỗi ngày tăm tối, sa đọa của mình, đánh dấu sự thức tỉnh nhân tính trong con người Chí, đồng thời bộc lộ khát khao được làm người lương thiện cùng cực, đến đau đớn đến mức phải lấy cái chết để chứng minh. Hơn thế nữa cái chết của Chí Phèo cũng là một chi tiết nhân văn, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến tàn ác, đẩy con người ta vào chỗ cùng đường mạt lộ. Dẫu rằng có thể việc dùng bạo lực là tiêu cực, nhưng trong hoàn cảnh ấy thực sự người nông dân chỉ còn cách vùng lên đấu tranh, dù rằng phải đổ máu. Không chỉ vậy ý nghĩa nhân văn của tác phẩm còn nằm ở chỗ tố cáo chế độ phong kiến thực dân thối nát và tàn bạo, khiến nhiều kiếp người khốn khổ phải lao đao, phải rơi vào bi kịch và tiêu biểu đó chính là nhân vật Chí Phèo. Cuối truyện Nam Cao để lửng một câu: “Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”. Thị Nở nhìn bụng mình rồi nghĩ đến gã tình nhân vừa mới chết hôm qua, lòng thị không biết nghĩ gì, thị thương xót Chí, xót phận mình, rồi chắc cũng nghĩ đến cái tương lai nếu có một Chí Phèo con ra đời. Cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo bị , bỏ rơi, Thị Nở nghĩ về nó là nghĩ về tương lai một đứa trẻ nữa có thể cũng bị bỏ lại nơi ấy. Thế hóa ra rằng đi hết một vòng, cứ ngỡ Nam Cao cho chúng ta một cái kết mở nhưng đó lại là cái vòng lặp luẩn quẩn không lối thoát truyền kiếp của Chí Phèo ư? Có lẽ rằng Chí Phèo chết đi nhưng cái bi kịch của Chí Phèo vẫn còn đó, vẫn còn đeo bám những con người đang sống và sẽ sống trong tương lai. Đó chính là số phận tăm tối và bế tắc của người nông dân ở chế độ cũ, Nam Cao đã để đó một dấu hỏi lửng, con người phải làm gì đó để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn bế tắc này, nhưng làm gì thì ông không nói. Kết truyện như vậy dễ dàng mở ra cho người đọc nhiều suy nghĩ, liên tưởng và đặc biệt có ấn tượng sâu sắc không chỉ về tấn bi kịch cuộc đời của nhân vật mà còn khiến độc giả phải trăn trở về một lối thoát cho những con người khốn khổ, phải đồng cảm sâu sắc với họ.

Với Vợ nhặt ta nhận rõ được rằng giọng văn của Kim Lân nhẹ nhàng và hóm hỉnh, khác hẳn với giọng văn ngưng trọng và lạnh lẽo của Nam Cao. Tràng một anh trai thiết nghĩ rằng đỡ bất hạnh hơn Chí Phèo bởi Tràng có mẹ nuôi nấng, Tràng không phải chịu kiếp mồ côi. Thế nhưng nói cuộc đời Tràng không có bi kịch thì không phải, sinh ra giữa đói nghèo, xấu xí, ế vợ chính là bi kịch của Tràng. Thế nhưng dưới ngòi bút của Kim Lân, trong nhiều truyện khác và truyện này cũng không ngoại lệ, nhân vật dẫu rằng có thảm hại, chịu nhiều khổ sở nhưng họ vẫn luôn tìm được cho mình một ánh sáng. Mà ánh sáng của Tràng có lẽ bắt nguồn từ người vợ nhặt, có vợ Tràng thấy mình sống có trách nhiệm hơn, khao khát về một gia đình đầm ấm sâu sắc, cũng từ lời vợ mà Tràng nhận ra được hướng đi mới để dẫn cả gia đình ra khỏi cơn nguy khốn khi cái đói cứ rình rập. Vợ chồng Tràng sau đêm tân hôn, sau nồi cháo cám mừng cưới của bà cụ Tứ, sau lời kể về việc phá kho thóc Nhật của thị, thì kết truyện là một chi tiết mà tôi cho rằng đó là điểm sáng nhất của cả tác phẩm. Chi tiết cuối “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, là một chi tiết đắt giá, nó trước hết là gợi ra cái cảnh nạn đói thê thảm năm 44-45, sau là gợi ra sự hiện diện của cách mạng đã về với những người nông dân cùng khổ. Ở trong Tràng và gia đình Tràng đã dần có nhận thức, giác ngộ về cách mạng. Họ hiểu rằng có lẽ chỉ có cách mạng về thì người nông dân mới thoát khỏi cái cảnh khốn đốn, cầm cự trước nạn đói do lũ phát xít tàn ác gây ra. Cũng như Chí Phèo kết của Vợ nhặt cũng là một cái kết mở, cũng mang đậm tính nhân văn, nhưng không phải là tố cáo, lên án hay thương cảm cho số kiếp của nhân vật. Mà thay vào đó vào tác giả lại nhìn nhận ở một khía cạnh khác có phần nhẹ nhàng hơn, đó là lòng trân trọng những khát khao sống, khát khao thay đổi cuộc đời đang kề cận bên bờ vực thẳm, là niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng. Như lời của Kim Lân: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Thay vì luẩn quẩn bế tắc trong cái bi kịch đói kém, thì chính họ lại tự giải thoát cho mình, bản thân Tràng nghĩ đến việc phá kho thóc, nghĩ đến việc làm cách mạng, hướng về lá cờ đỏ sao vàng. Dù là cách nào cũng được, nhưng chúng đều là những con đường sáng đưa cả gia đình Tràng thoát ra khỏi sự tăm tối, khổ cực, thoát khỏi cái vị đắng nghét của nồi cháo cám. Chung quy lại đó là sự vận động tất yếu của xã hội loài người theo xu hướng tích cực, tác giả không nói rõ Tràng sẽ làm gì tiếp theo, thế nhưng chí ít trong lòng người đọc đó là một cái kết mở có hậu, đủ để người ta liên tưởng về một tương lai tốt đẹp cho gia đình Tràng khi cách mạng về.

Như vậy nhìn chung điểm giống nhau của hai tác phẩm chính là tính hiện thực sâu sắc khi phản ánh một cách rất rõ nét về cuộc đời và số phận đầy những bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ, mà tất cả những bi kịch khốn khổ ấy đều đến từ sự xâm lược của bọn thực dân phát xít, cùng với sự tàn ác đốn mạt của chế độ phong kiến vốn đã mục rỗng, thối nát. Tuy nhiên nếu như Nam Cao viết về một Chí Phèo với những bi kịch nối tiếp bi kịch thi nhau vùi dập Chí, để rồi đặt một cái kết thúc tưởng là mở nhưng lại là mở ra một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, thể hiện rõ rằng Chí Phèo dẫu có chết thì cái bi kịch ấy vẫn còn đó, nó chỉ chuyển sang đối tượng khác mà thôi. Nam Cao gác bút để lại trong lòng độc giả nhiều trăn trở về cái bế tắc, tăm tối của người nông dân trong chế độ cũ. Còn với Vợ nhặt của Kim Lân, sự khác biệt vốn đã bắt đầu từ giọng văn ấm áp, tình cảm của tác giả, nhân vật bước những bước đi rất khó khăn để vượt qua số phận khốn khổ và chí ít trong tầm mắt họ đã nhìn thấy được một tương lai tốt đẹp hơn ở lá cờ đỏ sao vàng. Chí ít rằng xã hội mà Tràng đang sống họ có đủ hơi ấm tình người, và gia đình Tràng cũng đầy đủ yêu thương, nhân vật dẫu có đói khổ, nhưng vẫn rất giàu có về mặt tinh thần. Chính vì thế nên kết thúc của câu chuyện cũng là một cái kết mở rất khoáng đạt, mở ra trong lòng người đọc nhiều hy vọng về một cái kết tốt đẹp cho nhân vật. Có thể nói rằng so với Nam Cao thì Kim Lân tập trung nhiều vào giá trị nhân văn, nhân đạo bằng cách xây dựng cho nhân vật các lối thoát hợp lý, tác giả miêu tả hiện thực để nhấn mạnh cái giá trị nhân văn mà mình muốn truyền tải. Còn Nam Cao thì tập trung vào tính hiện thực, tố cáo xã hội và lột tả số phận bi kịch của con người, lấy giá trị nhân văn, tình người trong tác phẩm để nhấn mạnh và làm rõ bi kịch của nhân vật.

Sở dĩ có sự khác nhau giữa cách xử lý truyện của các tác giả khi cùng viết về đề tài người nông dân trước cách mạng, trước hết là phụ thuộc vào phong cách viết của tác giả. Thứ hai là dựa vào hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và góc nhìn của hai tác giả là hoàn toàn khác nhau. Với Nam Cao ông viết Chí Phèo vào năm 1941, là những năm tháng khốn khổ cùng cực nhất của nhân dân ta, Bác Hồ mới về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Có lẽ rằng lúc này đây, cách mạng đối với người nông dân Việt Nam là còn quá mơ hồ, bởi ngay cả Nam Cao mãi đến năm 1943 mới bắt đầu bước chân vào cách mạng. Thế nên, khi viết Chí Phèo, rõ ràng rằng Nam Cao chỉ nhìn rõ được hiện thực tàn khốc và bi kịch của người nông dân, nhưng không thể tìm ra được cách giải quyết và lối thoát cho họ. Bởi chính bản thân ông cũng là một trong những trí thức tiểu tư sản đang mắc kẹt giữa cuộc đời lắm bất công như nhân vật Hộ của Đời thừa. Ngược lại, thì Kim Lân viết Vợ nhặt lần đầu tiên sau khi cách mạng tháng tám vừa thành công, thế nên trong lòng tác giả những gì mà cách mạng mang về cho nhân dân còn để lại cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc. Chính vì thế cả nội dung và giọng văn của tác giả đều vô cùng tươi sáng và tích cực, hướng người nông dân đến một lối thoát, một cách giải quyết vô cùng hợp lý và tràn đầy hy vọng.

Nói chung, Chí Phèo và Vợ nhặt mỗi tác phẩm đều mang những nội dung và tư tưởng khác nhau, làm nên sự đa dạng và phong phú cho nền văn học Việt Nam. Đồng thời cũng là cách để mỗi nhà văn tự đánh dấu tên tuổi của mình trên văn đàn nước ta. Đọc từng tác phẩm ta lại nhìn nhận được một khía cạnh của vấn đề, khiến chúng ta phải trăn trở suy nghĩ, nếu Chí Phèo được cưới Thị Nở thì câu chuyện sẽ đi về đâu, liệu Chí có thể làm người lương thiện như hắn hằng mong muốn. Rồi nếu như cách mạng về, Tràng liệu có đi theo cách mạng hay không, vợ chồng Tràng sẽ hạnh phúc chứ? Và còn rất nhiều những câu hỏi xung quanh từng câu chuyện để độc giả tự suy ngẫm và tưởng tượng.

————————–HẾT—————————–

Chí Phèo và Vợ nhặt là hai truyện ngắn xuất sắc viết về hình tượng người nông dân trong xã hội xưa, bên cạnh bàiSo sánh đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo và Vợ nhặt, các em học sinh có thể tham khảo thêm một số bài văn hay lớp 12 khác như:Cảm nhận về ý nghĩa của những câu nói trong Chí Phèo và Vợ nhặt, Bi kịch tha hóa của nhân vật Chí Phèo, Cảm nhận về hình ảnh bát cháo hành trong truyện Chí Phèo và hình ảnh bát cháo cám trong Vợ nhặt, Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ nhặt.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button