Đề bài: Phân tích đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân
Bài văn Phân tích đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân
I. Dàn ýPhân tích đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân (Chuẩn)
1. Mở bài
Sơ lược tác giả Nguyễn Tuân và đoạn trích Cô Tô.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua:
– Sử dụng tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn.
– Lựa chọn những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô sau bão: Bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát, cho người đọc những hình dung cơ bản nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái hiện – đảo Cô Tô sau bão.
– Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt”, màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát, đem đến một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch.
– Sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn”, bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.
b. Vẻ đẹp của cảnh bình minh trên đảo Cô Tô:
– Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”.
– Cảnh bình minh trong Cô Tô cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc biệt “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu … nước biển ửng hồng” => chuyển đổi cảm giác => chân thực, mặt trời trở nên gần gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc hậu” và thân thuộc với con người.
– Sử dụng các tính từ “tròn trĩnh”, “phúc hậu”, “đầy đặn”, “hồng hào”, “thăm thẳm” đã đem đến cho người đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi bình minh.
– Ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng liêng, một món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự “trường thọ”.
– Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của vài “chiếc nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển khơi.
=> Nguyễn Tuân đã thực sự tinh tế và khéo léo khi chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vô cùng chính xác để đặc tả mặt trời, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.
c. Vẻ đẹp của con người:
– Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo rồi mở rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền.
– Cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến, tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”, gợi cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng.
– Cảnh lao động vừa tấp nập, khẩn trương:
+ “Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay không biết có bao nhiêu người đến và múc”.
+ “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong gánh nối tiếp nhau đi đi về về”.
=> Tái hiện một khung cảnh con người chăm chú lao động, miệt mài với công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi bật sự đông đúc và dồi dào của giếng nước ngọt với hình ảnh đoàn người nối tiếp nhau “đi đi về về” múc nước đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi.
– Cảnh sinh hoạt của đảo Cô Tô với dáng vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con mà tác giả “thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận.
II. Bài văn mẫuPhân tích đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân (Chuẩn)
Nguyễn Tuân (1910-1987), là một nhà văn nổi tiếng được xếp vào hàng một trong 9 nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, với sở trường chủ yếu là tùy bút và kí. Trước cách mạng tháng tám các chủ đề của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh “chủ nghĩa xê dịch”, những vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và những tác phẩm phản ánh “đời sống trụy lạc” của một bộ phận con người trong xã hội, với những tác phẩm khá thành công như Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, hay Một chuyến đi. Sau nhiều lần bị bắt giam, Nguyễn Tuân có cơ hội tiếp xúc với các chiến sĩ cách mạng, điều đó đã hình thành trong ông những chủ đề mới mẻ, ngợi ca quê hương đất nước, vẻ đẹp của con người trong lao động, với các tác phẩm tiêu biểu như tùy bút Sông Đà, tập ký Cô Tô, Tùy bút kháng chiến,… Đoạn trích Cô Tô là phần cuối của tác phẩm ký Cô Tô, ghi lại những ấn tượng của tác giả về thiên nhiên, con người và cuộc sống lao động sau một chuyến ra thăm đảo Cô Tô.
Trong phần đầu của đoạn trích tác giả Nguyễn Tuân đã đi vào miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Tác giả đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn. Không chỉ đặc sắc ở việc dùng lựa chọn từ ngữ mà tài năng của Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở cách mà tác giả lựa chọn những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô sau bão, như bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát. Đó đều là những hình tượng tiêu biểu của một vùng đảo, cho người đọc những hình dung cơ bản nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái hiện – đảo Cô Tô sau bão. Đứng từ một điểm cao nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt”, gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển, đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn”, bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa. Đồng thời cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả không chỉ là vẻ đẹp của Cô Tô và còn là nghệ thuật dùng từ ấn tượng, đạt đến trình độ thượng thừa của tác giả.
Sang phần tiếp theo của đoạn trích hình ảnh đảo Cô Tô lại được tác giả tái hiện qua quang cảnh mặt trời mọc trên biển, một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Ở đoạn này toàn bộ bức tranh tranh trẻo, thanh khiết sau bão đã trở thành nền tảng để làm nổi bật lên vẻ đẹp rực rỡ của bình minh. Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”, điều đó dễ dàng khiến khán giả liên tưởng đến hình ảnh một vòm trời cao rộng, xanh trong không một gợn mây. Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạ nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Cảnh bình minh trong Cô Tô cũng được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc biệt “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. So sánh thú vị của Nguyễn Tuân khi biến hình ảnh mặt trời thành một loại thức ăn, việc chuyển đổi cảm giác này mang lại cảm giác chân thực hơn cả, mặt trời trở nên gần gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc hậu” và thân thuộc với con người. Hơn thế nữa việc sử dụng các tính từ “tròn trĩnh”, “phúc hậu”, “đầy đặn”, “hồng hào”, “thăm thẳm” đã đem đến cho người đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi bình minh. Nó khác xa với những cảnh bình minh trừu tượng, xa xăm trong văn học xưa và nay, khi mà ở đó người ta chỉ thấy được vẻ rực rỡ của những tia nắng, của bầu trời trong xanh, chứ không bao giờ hình dung ra dáng vẻ thật sự của mặt trời, cũng không nhận biết được thực ra vẻ đẹp của bình minh chân chính phải xuất phát từ dáng vẻ mặt trời lúc ló rạng. Không chỉ vậy với sự kỳ vĩ tuyệt vời đó Nguyễn Tuân đã ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng liêng, một món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự “trường thọ”. Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của vài “chiếc nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển khơi. Có thể nói rằng trong Cô Tô, Nguyễn Tuân đã thực sự tinh tế và khéo léo khi chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vô cùng chính xác để đặc tả mặt trời, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.
Với “chủ nghĩa xê dịch” của mình, Nguyễn Tuân luôn đi tìm tòi cái đẹp ở khắp mọi miền Tổ quốc, và trong việc tìm tòi của mình nhà văn ngoài chú ý đến vẻ đẹp của thiên nhiên, thì con người với cuộc sống lao động cũng là một đề tài mà tác giả đặt trọng tâm. Ở Cô Tô cũng không ngoại lệ, sau việc tái hiện vẻ đẹp thiên qua bức tranh trong trẻo, tinh khiết của đảo sau bão và cảnh bình minh rực rỡ huy hoàng, thì Nguyễn Tuân bắt đầu đi vào tìm hiểu những vẻ đẹp của con người trong lao động. Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước ngọt ở rìa đảo rồi mở rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến, tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”, nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng. Nguyễn Tuân đã chỉ ra sự cảnh lao động vừa tấp nập, khẩn trương, vừa thanh bình ấy trong nhiều ý văn, ví như cảnh “Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay không biết có bao nhiêu người đến và múc”, hay câu “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong gánh nối tiếp nhau đi đi về về”. Những lời tả ấy của tác giả đã tái hiện một khung cảnh con người chăm chú lao động, miệt mài với công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi bật sự đông đúc và dồi dào của giếng nước ngọt với hình ảnh đoàn người nối tiếp nhau “đi đi về về” múc nước đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi. Bên cạnh dáng vẻ khẩn trương, tấp nập của những người dân chài thì cảnh sinh hoạt của đảo Cô Tô còn hiện lên với dáng vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con mà tác giả “thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”.
Đoạn trích Cô Tô là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tập ký cùng tên. Qua ngòi bút uyên bác, tài hoa lối sử dụng từ ngữ điêu luyện, chính xác và tinh tế nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện thật sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên đảo Cô Tô và cảnh sinh hoạt lao động của những con người nơi đây. Thông qua đó bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, tha thiết với những vẻ đẹp kỳ vĩ của đất nước, cũng như tấm lòng sâu nặng, ngợi ca của tác giả với vẻ đẹp của con người trong công cuộc lao động đổi mới và xây dựng đất nước.
———————-HẾT————————–
Bên cạnh bàiPhân tích đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân, để học tốt và ghi nhớ nhanh những nội dung quan trọng của văn bản Cô Tô, các em học sinh có thể tham khảo thêm:Sơ đồ tư duy Cô tô, Tóm tắt bài Cô Tô, Cảm nhận của em về đoạn trích Cô Tô trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Tuân, Phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn mà em thích nhất trong bài kí Cô Tô của Nguyễn Tuân