Lớp 9

Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đề bài: Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

phan tich bai tho bai tho ve tieu doi xe khong kinh

Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Dàn ý Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Chuẩn)

1. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

2. Thân bài

a. Hình tượng những chiếc xe không kính và tư thế kiên cường, ung dung của người lính (khổ 1 và khổ 2)
– Hình tượng những chiếc xe được miêu tả chân thực, trần trụi:
+ Điệp từ “không có” kết hợp chất văn xuôi qua lối nói khẩu ngữ nhấn mạnh sự tàn phá của chiến tranh.
+ Các từ phủ định được sử dụng nối tiếp “không có… không phải… không có”

– Hình tượng người lính lái xe với vẻ đẹp kiên cường, ung dung:
+ Biện pháp đảo ngữ: “Ung dung buồng lái ta ngồi”
+ Điệp từ “nhìn thấy… nhìn thấy… thấy” được nhắc lại ba lần → tư thế hiên ngang, trực diện đối mặt khó khăn…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ýPhân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính tại đây.

II. Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính

1. Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính, mẫu số 1 (Chuẩn):

Phạm Tiến Duật cùng với Chính Hữu, Quang Dũng và Tố Hữu đều là các nhà thơ nổi tiếng và thành công khi viết về đề tài người lính trong hai cuộc kháng chiến đầy máu và lửa của dân tộc. Nếu như Đồng Chí của Chính Hữu hay Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của nền thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, thiếu thốn, thì Bài thơ tiểu đội xe không kính lại chính là một bài thơ rất tiêu biểu cho nền thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, khi gắn với hình tượng người lính lái xe qua con đường Trường Sơn oai hùng và ác liệt.

Phạm Tiến Duật (1941-2007), là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, ông vốn tốt nghiệp trường sư phạm thế nhưng lại từ bỏ rồi tham gia sống và chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Các tác phẩm của ông tập trung chủ yếu về tài người lính lái xe và những cô gái thanh niên xung phong tham gia nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường huyết mạch trong những năm Mỹ bắn phá ác liệt. Giọng điệu thơ nổi bật với sự trẻ trung, tinh nghịch nhí nhảnh và sâu sắc, tất cả đều đến từ tinh thần lạc quan, yêu đời, những trải nghiệm thực tế của đời chiến đấu, và những góc nhìn đa diện về chiến trường của tác giả. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến như tập Vầng trăng quầng lửa, Ở hai đầu núi, Thơ một chặng đường,…

Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) là bài thơ được rút ra từ tập Vầng trăng quầng lửa (1970). Nhan đề “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhìn có vẻ dài dòng và trúc trắc thế nhưng thực tế lại mang nhiều dụng ý của tác giả, hai từ “bài thơ” ở đây không phải để nói về thể loại của tác phẩm mà nó gợi lên chất thơ của cuộc sống nơi chiến trường, của tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất. Thứ hai nữa cụm “tiểu đội xe không kính” có sức gợi rất lớn, mở ra hiện thực phổ biến trên tuyến đường huyết mạch, gợi ra cả cuộc chiến vô cùng gay go, đầy mưa bom bão đạn, đồng thời cũng gợi ra những phẩm chất đẹp đẽ của những người lính lái xe đó là sự dũng cảm, can trường, ý chí nghị lực, sự kiên cường. Tổng quan, nhan đề đã đem đến cho người đọc những ấn tượng về hiện thực chiến trường nóng hổi, tô đậm chất thơ, cảm hứng lãng mạn trong cuộc đời người lính lái xe.

Bài thơ đã dựng lên hai hình tượng là những chiếc xe không kính trên tuyến đường giao thông huyết mạch thời chiến và từ đó làm nổi bật lên hình tượng những anh lính lái xe dũng cảm, yêu đời ngày ngày đi qua con đường đầy bom đạn.

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Với hình ảnh tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật đã đi vào giới thiệu một cách đầy độc đáo và ấn tượng với câu thơ “Không có kính không phải vì xe không có kính”. Điệp từ “không” cùng chất văn xuôi đậm đặc trong câu thơ, lối nói khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích của người lính về lịch sử của những chiếc xe. Gợi lên một tâm trạng vừa xót tiếc, xuýt xoa với chiếc xe, với người bạn chiến đấu gắn bó của mình, lại vừa có một chút thanh minh, phân bua đầy tự hào và thực tiễn rằng “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” mang đến cho độc giả những hứng thú đi tìm hiểu sâu hơn.

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Sau lời giới thiệu ấy chiếc xe được miêu tả rất chân thực và sinh động, chủ yếu dùng thủ pháp liệt kê “Không có kính, rồi xe không có đèn/Không có mui xe, thùng xe có xước”, những cái cần có lại không có, còn những cái vốn không cần thì lại hiện diện, gợi lên hình ảnh một chiếc xe không vẹn toàn, tàn tạ, thiếu thốn đủ thứ. Từ đó cho độc giả những liên tưởng về sự khốc liệt, ghê gớm của chiến trường, sự gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe, đồng thời gợi ra cả lòng dũng cảm, ý chí kiên cường, tinh thần lạc quan của người lính trong chiến đấu.

Bên cạnh gợi ra hiện thực, thì hình tượng tiểu đội xe không kính còn gợi ra cả chất thơ giữa đời thường, chính bởi vì không có kính thế nên cuộc sống của người lính dường như được mở rộng ra, chan hòa với thiên nhiên “thấy gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”, “thấy sao trời và đột ngột cánh chim”, tất cả đều trở nên gần gũi, thân thiết.

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”

Người lính nhân đó cũng tìm được những giây phút vui vẻ hồn nhiên nhất giữa cuộc chiến đầy ác liệt “Không có kính ừ thì có bụi/Bụi phun tóc trắng như người già/Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, giúp họ tạm thời quên đi những đau thương mất mát, những nỗi vất vả trên chiến trường đầy bom đạn. Không chỉ vậy những khung cửa kính vốn dĩ bị bom đạn tàn phá vỡ đi, lại giúp những người lính xích lại gần nhau hơn, khiến họ có những cái bắt tay rất chặt “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới/Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Bộc lộ tinh thần đoàn kết, gắn bó dẫu vội vã trên đường hành quân ra mặt trận, vội vã tránh né bom đạn kẻ thù, thì cửa kính vỡ ấy đã cho họ một cái bắt tay vội vã và ấm nóng tình đồng chí, đồng đội, động viên nhau trên dọc đường sắp tới mà chẳng cần phải nói với nhau lời nào. Có thể nói rằng, hình ảnh tiểu đội xe không kính là một hình ảnh rất thực, cũng chẳng hiếm hoi gì trên chiến trường miền Nam, nhưng vào thơ Phạm Tiến Duật nó đã trở thành một hình ảnh thơ độc đáo, không chỉ phản ánh hiện thực chiến trường tàn khốc mà còn gợi ra được cả chất thơ, tính thi vị trong cuộc đời gian lao của người lính chiến, là đóa hoa độc lạ nở giữa chiến trường ác liệt, trở thành hình tượng thơ độc đáo và bậc nhất trong thơ ca của Phạm Tiến Duật nói riêng và nền thơ ca kháng chiến chống Mỹ nói chung.

Từ hình ảnh của tiểu đội xe không kính, bức chân dung của người lính lái xe Trường Sơn đã được gợi ra một cách độc đáo và sinh động, đó là bức chân dung được khắc họa trên nền của một cuộc chiến tranh gian khổ và ác liệt. Đó là cảnh “bom giật, bom rung”, là cảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi”, hình ảnh “bom” lặp đi lặp lại và xuất hiện trong hai câu thơ của tác phẩm kết hợp với hình ảnh những chiếc xe không kính luôn song hành và hài hòa với nhau, gợi ra một không gian chìm trong khói lửa, chìm trong mưa bom bão đạn, không một chút bình yên. Từ trên cái nền đặc biệt ấy, vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn được khắc họa qua nhiều phương diện, Phạm Tiến Duật không đi sâu vào miêu tả ngoại hình dáng vẻ của họ mà thay vào đó tác giả tập trung làm nổi bật những vẻ đẹp phẩm chất của người lính lái xe Trường Sơn nói riêng và trở thành biểu tượng tiêu biểu đại diện cho cả một thế hệ thanh niên anh hùng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vẻ đẹp của những anh bộ đội cụ Hồ.

Vẻ đẹp đầu tiên của người lính xuất hiện trong bài thơ đó là lòng dũng cảm, phong thái ung dung và hiên ngang “Ung dung buồng lái ta ngồi/Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”. Tác giả sử dụng thủ pháp đảo ngữ, đưa tính từ “ung dung” lên đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kỳ lạ của người lính, bên cạnh đó đó biện pháp điệp từ “nhìn”, kết hợp với thủ pháp liệt kê liên tục đã bộc lộ phẩm chất của người lính, không hề tránh né, không sợ hãi, luôn nhìn thẳng vào hiện thực gian khổ ác liệt, nhiều hy sinh, sẵn sàng đối mặt với nhiều gian nan thử thách, sẵn sàng hy sinh cống hiến một phần sức lực để Tổ quốc được hòa bình.

Nhưng không chỉ đối mặt với hiện thực chiến trường ác liệt bằng phong thái ung dung, bằng lòng dũng cảm mà người lính lái xe còn đối diện và vượt lên trên hiện thực bằng sự tinh nghịch, trẻ trung, bằng tinh thần lạc quan, sôi nổi cách mạng. Mà trong thơ của Phạm Tiến Duật nó hiện lên một cách tự nhiên và sâu sắc, hóa ra đi qua bao nhiêu trận chiến ác liệt, nếm trải nhiều những hy sinh mất mát như vậy thế nhưng người lính chiến vẫn có thể giữ cho mình một tâm hồn trẻ trung, vẻ đẹp của một thời đại anh hùng, không bị chai sạn già nua bởi hiện thực khắc nghiệt. Có thể nói rằng đây là một phương diện rất “đắt”, rất đáng quý mà trước đây thơ ca cách mạng Việt Nam thường bỏ qua, thậm chí chịu số phận ghẻ lạnh phê phán ví như Tây Tiến của Quang Dũng, chút mộng mơ, trẻ trung yêu đời ấy lại bị cho là ủy mị, làm mất tinh thần chiến đấu, quả là hết sức phiến diện và sai lầm. Nhưng có lẽ thơ của Phạm Tiến Duật thời kỳ này được hoan nghênh hơn, bởi hình tượng người lính không gắn liền với tình yêu nam nữ mà chỉ gắn với những tình cảm tươi trẻ, sự tinh nghịch, hồn nhiên qua lối nói tếu táo của nhà thơ chăng? Đó là sự chân thực, tự nhiên thông qua lối nói hài hước, đậm chất khẩu ngữ “Không có kính ừ thì có bụi”, hay lối miêu tả bình dân “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc”, dáng điệu của người lính qua lối nói, lối tả ấy hiện lên một cách thật gần gũi, giản đơn, và có chút phong trần rất thơ. Bên cạnh đó lối nói có phần nhẹ tâng, hóm hỉnh ấy cũng tinh tế gợi ra cho người đọc những hiện thực của chiến trường, của chốn rừng thiêng nước độc Trường Sơn, của con đường vạn lý trường chinh đã chứng kiến biết bao nhiêu đời lính lái, chịu biết bao nhiêu tổn thất đau thương mà vẫn anh hùng. Con đường ấy có “, có “gió vào xoa mắt đắng”bụi phun tóc trắng”, rồi cả “mưa tuôn mưa xối”, đó chính là cảm giác thực của người lính lái xe, là hiện thực chiến trường mà họ phải trải qua trong nhiều năm tháng chiến đấu, khi ngồi trên những chiếc xe không kính, chịu nhiều tổn hại. Có thể thấy rằng với giọng thơ trẻ trung, hồn nhiên của mình Phạm Tiến Duật đã khiến cho người đọc vừa hiểu rõ, lại cũng làm mờ đi, làm nhẹ đi những khó khăn, vất vả của người lính chiến, có thể đối với độc giả đó là những khó khăn ghê gớm, khó lòng vượt qua, nhưng với lính cụ Hồ, bấy nhiêu khó khăn bỗng trở nên bình thường, đó chính là cuộc sống của họ, cuộc sống của những con người trong thời đại kháng chiến chống Mỹ.

Bên cạnh đó sự trẻ trung, sôi nổi của người lính còn bộc lộ thông qua cái nhìn rất lạc quan về tương lai “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” một nụ cười hồn nhiên vô tư, hay “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi”, nếu hiện thực trước mắt là mưa tuôn xối xả, thì người lính lại không lấy đó làm lo lắng, thay vào đó họ lại nhìn thấy được tương lai là mưa ngừng, quần áo tất được gió hong khô. Như vậy có thể thấy, gió, bụi, hay mưa vừa là hiện thực gian khổ, nhưng khi vào tầm nhìn, vào đôi mắt của người lính chiến thì nó lại nghiễm nhiên trở thành niềm vui, trở thành sự kết hợp ăn ý cho một tương lai lạc quan hơn – mưa ướt thì đã có gió hong khô. Thêm nữa “Võng mắc chông chênh đường xe chạy/Lại đi lại đi trời xanh thêm”, nếu như vế trước là hiện thực cuộc sống gian khổ, thì vế sau lại như là một ẩn dụ đầy lạc quan về tương lai phía trước, phía cuối con đường Trường Sơn ấy có gì, có bầu trời xanh yên ả, có niềm tin về một ngày mai đất nước sẽ hòa bình, tự do.

Không chỉ giữ được vẻ trẻ trung, hồn nhiên, yêu đời giữa chiến trường ác liệt mà người lính lái xe còn giữ được cho tâm hồn hồn mình những cảm xúc lãng mạn đậm chất lính, xóa đi hiện thực gian khổ, chan hòa với thiên nhiên. Thay vì cảm thấy mệt mỏi, thấy chán chường với hiện thực khốc liệt thì trái lại người lính chiến lại nhìn nó với một con mắt thi vị hơn, biến những cái khắc nghiệt, khô khốc của chiến tranh trở thành những vẻ đẹp rất riêng rất thơ, để làm mờ đi hiện thực cuộc chiến. Họ cảm nhận thiên nhiên như một người bạn nồng hậu, phóng khoáng “Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/Như sa như ùa vào buồng lái”. “Lại đi lại đi trời xanh thêm” không chỉ là ẩn dụ về tương lai lạc quan phía trước, nó còn là vẻ đẹp thiên nhiên trong tâm hồn của người lính, là sắc xanh đầy hy vọng trong tâm hồn những con người trẻ tuổi, hy sinh cả thanh xuân vì đất nước.

Một phương diện nữa trong vẻ đẹp người lính của thơ Phạm Tiến Duật có lẽ có phần gặp gỡ với Đồng chí của Chính Hữu, đó chính là vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội sâu nặng. Nó được bộc lộ rất đơn sơ giản dị qua những cái bắt tay chân thành, vội vàng qua cửa kính vỡ, đó là sự đồng cảm sâu sắc, niềm chia sẻ chân thành, là lời động viên thầm lặng đầy nồng hậu, ấm áp tình người. Thêm nữa, tình đồng chí còn được thể hiện qua sự gắn bó thân thương giữa chiến trường “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, tạo nên những giây phút bình yên hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời đầy đạn bom khói lửa của người lính. Bữa cơm vội vã giữa chiến trường đã xóa nhòa mọi khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt, trở thành gia đình của nhau. Là điểm tựa vững chắc để người lính băng qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, một lòng hướng về phía trước, có thêm dũng khí, sự kiên cường trong chiến đấu, ước mong một mai này trở về bên gia đình thân yêu, bên quê hương thân mến.

Cuối cùng khi nói đến hình tượng người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì không thể không nói đến vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng, là điểm nhấn đặc sắc, là khuynh hướng chung của thi ca thời kỳ này. “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước/Chỉ cần trong xe có một trái tim”, cụm “vì miền Nam” là một lối nói cụ thể lại cũng rất giàu sức gợi, thể hiện ước mơ về một ngày mai chiến thắng không xa, về một ngày thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà. Hình ảnh “trái tim” trước hết là một hoán dụ đẹp, là hình ảnh người lính với toàn bộ tâm huyết, sức lực dành trọn cho đất nước, đồng thời cũng là một ẩn dụ cho tình thần trách nhiệm cho ý chí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã xây dựng thành công hình tượng tiểu đội xe không kính chân thực, độc đáo, qua đó khắc họa được chân dung của người lính lái xe Trường Sơn với những vẻ đẹp phẩm chất cao quý, tiêu biểu cho thế hệ trẻ thời kỳ kháng chiến chống mỹ cứu nước. Làm nên thành công cho bài thơ còn nằm ở việc tác giả vận dụng tinh tế thể thơ tự do đậm chất văn xuôi, sử dụng hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường, cùng với ngôn ngữ thơ mang tính khẩu ngữ tự nhiên, giọng điệu ngang tàng khỏe khoắn, hài hước dí dỏm.

2. Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính, mẫu số 2:

Chiến tranh đã lùi xa theo sự biến động không ngừng của thời gian nhưng dư âm của nó vẫn còn lưu lại trong những trang sử hào hùng của dân tộc qua những bài ca, vần thơ, câu chuyện trong văn học. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong số những tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua bài thơ, tác giả đã làm nổi bật hai hình tượng cùng sóng đôi và song hành trong mỗi một khổ thơ: đó là những tiểu đoàn xe không kính và người lính lái xe với những vẻ đẹp ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Ở hai khổ thơ đầu tiên, tác giả đã làm nổi bật hình tượng những chiếc xe không kính và tư thế kiên cường, ung dung của người lính. Bằng giọng thơ mang đậm chất văn xuôi và lối nói mang tính khẩu ngữ, những chiếc xe không kính xuất hiện một cách chân thực và trần trụi:

“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Điệp ngữ “Bom giật bom rung” đã diễn tả thành công sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh – không gian của những “mưa bom bão đạn” và hàng loạt những hiểm nguy đang rình rập người chiến sĩ. Nhưng với tinh thần bất khuất, họ đã đối diện với những điều đó với tư thế kiên cường, ung dung:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Tác giả đã đưa từ “ung dung” lên đứng đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp hiên ngang của người lính. Đi qua những “lửa đạn bom rơi”, qua buồng lái không kính, họ trực diện nhìn thẳng vào hiện thực cuộc chiến:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhìn thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Không gian rộng lớn của con đường ra trận được gợi mở theo bút pháp hiện thực. Qua những buồng lái, người lính chứng kiến tất cả những gì khắc nghiệt nhất của thiên nhiên và chiến trường. Nhịp thơ dồn dập qua điệp từ “nhìn” và giọng thơ mạnh mẽ đã nhấn mạnh tư thế chủ động đối diện với mọi khó khăn, gian khổ của người lính. Dẫu có bao nhiêu trở ngại “gió xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim” thì họ vẫn cầm chắc tay lái để nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù để điều khiển những chiếc xe thẳng tiến vững vàng ra mặt trận.

Ở hai khổ thơ tiếp theo, tác giả đã miêu tả sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi chiến trường cùng tinh thần bất chấp hiểm nguy và sự lạc quan của người lính. Con đường ra trận không chỉ có bom đạn của kẻ thù mà còn có những yếu tố khắc nghiệt khác như bụi bặm, “mưa tuôn”, “mưa xối” khiến người chiến sĩ lái xe gặp vô vàn trở ngại như “bụi phun tóc trắng như người già”, “ừ thì ướt áo” nhưng họ vẫn bản lĩnh , vững vàng vượt qua với tinh thần lạc quan cùng sự hài hước, dí dỏm:

“Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Hay như:

“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”

Với giọng thơ hóm hỉnh cùng ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày, tinh thần lạc quan cùng những tiếng cười của người lính vang lên giữa chiến trường khốc liệt đã được tác giả Phạm Tiến Duật miêu tả thành công. Đó cũng là vẻ đẹp chung của thế hệ thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Không chỉ dừng lại ở đó, hình tượng những chiếc xe không kính còn được nhà thơ miêu tả trong mối quan hệ với vẻ đẹp của tình đồng đội giữa những người lính lái xe. Qua những khung cửa không kính, họ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” và “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”. Đó là những cái “bắt tay” thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia những khó khăn mà họ đi qua, gợi nhắc hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” mà tác giả Chính Hữu từng miêu tả ở tác phẩm “Đồng chí”. Tình đồng đội gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ còn được thể hiện thông qua định nghĩa về gia đình mang đậm chất lính:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Những hiểm nguy mà người lính đã đi qua càng làm cho họ thêm gắn bó sâu nặng. Dù cho những bữa cơm thời chiến diễn ra đơn sơ, giản dị và chóng vánh nhưng vẫn đủ sức xóa đi mọi khoảng cách để họ xích lại gần nhau, xem nhau như anh em ruột thịt trong một gia đình.

Ở khổ thơ cuối cùng, tác giả tiếp tục miêu tả hình tượng những chiếc xe không kính với bút pháp hiện thực. Tiểu đội xe không kính hiện lên với sự thiếu thốn và không vẹn toàn: “Không có kính, rồi xe không có đèn / Không có mui xe, thùng xe có xước”. Những yếu tố cần thiết để đảm bảo chiếc xe hoạt động bình thường và an toàn dần biến mất, nhưng rồi chúng vẫn “bon bon” chạy thẳng ra chiến trường một cách hiên ngang, bởi:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Sức mạnh của lòng yêu nước cùng lý tưởng một lòng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã được nêu bật thông qua cách biểu đạt cụ thể về chặng đường “vì miền Nam”. Tác giả đã sử dụng biện pháp hoán dụ qua hình ảnh “trái tim” để gợi lên ý chí chiến đấu cùng sự ngoan cường dũng cảm và lý tưởng cách mạng cao đẹp của người lính. Chính “trái tim” đầy nhiệt huyết đó đã giúp họ chiến thắng mọi gian khổ và đi qua mọi bom đạn của kẻ thù.

Như vậy, thông qua thể thơ tự do, giọng thơ tự nhiên pha chút hài hước, dí dỏm cùng ngôn ngữ thơ giản dị, tác giả Phạm Tiến Duật đã đóng góp một cách nhìn mới mẻ về hiện thực chiến tranh. Xuyên suốt tác phẩm, hình tượng tiểu đội xe không kính cùng những người lính lái xe luôn được miêu tả trong sự song hành để làm nổi bật vẻ đẹp, sức mạnh của tinh thần yêu nước và tinh thần bất khuất, kiên cường chống ngoại xâm trong những tháng năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

———————-HẾT————————

Phân tích bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính trên đây đã giúp các em thấy hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt cùng tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh của người lính lái xe. Để tìm hiểu thêm những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật bài thơ, bên cạnh bài phân tích trên đây, các em có thể tham khảo thêm:Cảm nhận của em về Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Vẻ đẹp người lính trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phân tích hình tượng chiếc xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Bình giảng bốn khổ thơ đầu bài thơ về tiểu đội xe không kính.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button