Đề bài: Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú
7 bài Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú
Nội dung
- 1 I. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú (Chuẩn)
- 2 II. Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú
- 2.1 1. Cảm nhận Khi con tu hú của Tố Hữu, mẫu 1 (Chuẩn)
- 2.2 2.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 2 (Chuẩn)
- 2.3 3.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 3 (Chuẩn)
- 2.4 4.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 4 (Chuẩn)
- 2.5 5. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 5 (Chuẩn):
- 2.6 6. Bài văn Cảm nhận Khi con tu hú của Tố Hữu, mẫu số 6:
- 2.7 7. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 7:
- 2.8 8. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 8:
- 2.9 9. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 9:
- 2.10 10. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 10:
- 2.11 11. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 11:
- 2.12 12. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 12:
I. Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu về Tố Hữu và bài thơ Khi con tu hú.
2. Thân bài
a. Cảm nhận về bức tranh mùa hè tươi đẹp trong kí ức tác giả
– Thời gian: hè đến
– Không gian: rộng lớn: cánh đồng, khu vườn, bầu trời cao rộng,…
– Âm thanh: Tiếng tu hú, tiếng ve ngân…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu.
II. Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú
1. Cảm nhận Khi con tu hú của Tố Hữu, mẫu 1 (Chuẩn)
Nhắc đến những tác giả nổi bật trong phong trào thơ ca cách mạng không thể không nhắc đến nhà thơ Tố Hữu. Các tác phẩm của ông đều là những vần thơ đẹp đẽ mang ánh sáng chói lòa của niềm vui khi có Đảng, của nhiệt huyết tuổi trẻ, của khát khao sống và cống hiến cho cách mạng. Một trong những vần thơ đẹp ấy phải kế đến thi phẩm Khi con tu hú- bài thơ mang tiếng lòng của người chí sĩ yêu nước, khát khao tự do trong cảnh tù đày.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh mùa hè đầy sôi động, vẻ đẹp của thiên nhiên đẹp được dệt nên bởi những ngôn từ quá đỗi trong sáng, bình dị:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chin, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng vàng”
Nếu khi xuân về có cánh én chao nghiêng thì hè đến là tiếng chim tu hú gọi nhau ngang trời. Câu thơ đầu tiên là một trạng ngữ chỉ thời gian báo hiệu hè về, là cơ sở để gợi mở ra một khung cảnh mùa hè tươi đẹp ở những câu sau. Thiên nhiên vào hè dường như đang “chín” dần theo vị thời gian: những bông lúa vàng ươm gần đến ngày thu hoạch, những trái cây thơm đang đượm dần vị ngọt, những hạt bắp vàng được tưới tắm ánh mặt trời ngày hạ lại đậm thêm vị nắng.
Hè về, lúa ngoài đồng đã chín, bắp trên đồi đã bẻ, quả trong vườn đã ngọt,…những công sức của người nông dân cuối cùng cũng được đền đáp. Vì thế niềm vui như gấp bội, lòng người thi sĩ cũng phấn khởi, rộn ràng. Khúc nhạc “tiếng ve ngân” là thanh âm làm sống động cả khu vườn. Ve đến gọi hè về, tiếng ve ngân nga tự do giữa khung trời, mang bao dư âm của tuổi thơ, mang bao kỉ niệm thời niên thiếu. Cảnh hè tươi mới, rộn ràng với sắc vàng của lúa chín, của nắng hạ, của bắp ngô, với sắc xanh của cây trái vườn nhà, với tiếng tu hú và tiếng ve ngân. Cảnh hè còn được điểm tô bởi cánh diều bay trong gió giữa bầu trời thanh bình, rộng lớn, tự do:
“Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.”
Lòng người thi sĩ như đang say mê, rạo rực trước mùa hè tuyệt diệu, ao ước được đắm chìm trong không gian rộng mở ấy đề tận hưởng vị thiên nhiên mà tạo hóa ban tặng. Nhưng có lẽ, với thực tại bây giờ, niềm ao ước ấy thật khó để thành hiện thực, bởi nhân vật trữ tình đang bị giam mình trong cõi chật hẹp của nhà tù thực dân. Đằng sau bức tranh thiên nhiên đẹp gợi lên ấy là cả một dòng tâm trạng khôn nguôi, đau xót:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi”
Tiếng hè dậy bên lòng, tiếng hè vẫy gọi thiết tha, hè khiến lòng chiến sĩ rạo rực muốn được chìm đắm trong khoảng không gian tươi đẹp. Lòng thổn thức-chân muốn đạp, muốn vượt thoát khỏi bốn bức tường chật hẹp nơi này để tận hưởng vị thiên nhiên, để được tự do làm cách mạng. Lối nói quá “đạp tan phòng” kết hợp với tiếng gọi tha thiết “hè ôi! ” càng diễn tả khát khao tự mãnh liệt như muốn bùng cháy trong trái tim người chiến sĩ trẻ. Còn gì buồn hơn khi sống trong cảnh giam cầm, còn gì bí bách hơn khi một kẻ suốt đời khát khao tận hiến cho cách mạng lại bị dùi xích chôn chân nơi ngục tù.
” Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú, ngoài trời cứ kêu”
Những tính từ mạnh “ngột”, “chết uất” được kết hợp khéo léo với các từ mang giá trị biểu cảm như “làm sao”, “thôi” đã diễn tả rõ nỗi bực dọc, ngột ngạt đến tột cùng của người chiến sĩ lúc này. Đồng thời, càng cho thấy niềm khát khao được vượt thoát khỏi chốn ngục tù tăm tối để rời xa những khó chịu đang bủa vây trong tâm trí, để được là bước ra đời sống với đôi chân tự do và tâm hồn rộng mở.
Nếu như tiếng tu hú đầu bài gọi hạ đến, là một tín hiệu của thời gian, đánh thức trong tâm hồn nỗi nhớ nhung về một mùa hè tươi đẹp, rộn ràng và tình yêu thiên nhiên tha thiết thì tiếng tu hú cuối bài là là tiếng gọi của tự do, của Đảng, thôi thúc nỗi khát khao được trở về với cách mạng trong lòng người chiến sĩ trẻ. Tiếng tu hú tuy bình dị, giản đơn nhưng là tiếng lòng sâu thẳm của một người suốt đời mình khao khát được cống hiến cho cách mạng lại không may bị giặc giã giam cầm.
Bằng thể thơ lục bát quen thuộc, kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như liệt kê, tả cảnh ngụ tình cùng lối viết giản dị mà giàu sức biểu đạt tác giả đã tạo nên một thi phẩm độc đáo, dạt dào cảm xúc và mang sức sống lâu bền qua bao thế hệ. Có thể nói, bài thơ đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu mỗi khi nhắc đến hồn thơ Tố Hữu và thơ ca cách mạng.
——————-HẾT BÀI 1————————
Sau khi đãCảm nhận về bài thơ Khi con tu húcác em có thể đi vàoPhân tích bài thơ Khi con tu húhoặc tham khảoTâm trạng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Khi con tu húnhằm củng cố kiến thức của mình.
2.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 2 (Chuẩn)
Tố Hữu (1920-2002 là nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca trữ tình chính trị Việt Nam, với hàng loạt các tác phẩm có giá trị như: Từ ấy, Việt Bắc, Một tiếng đờn…, ông được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, có đóng góp to lớn đưa nền thơ ca trữ tình chính trị của nước nhà đạt đến đỉnh cao. Thơ Tố Hữu có sự hòa quyện giữa chất chính trị đậm nét cùng chất trữ tình tha thiết, đằm thắm, một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Tố Hữu có thể kể đến bài thơ Khi con tu hú.
Khi con tu hú được ra đời trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt vào khoảng thời gian đầu khi Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Thừa Phủ (tháng 7 năm 1939). Khi ấy Tố Hữu vừa mới gia nhập vào Đảng cộng sản Việt Nam chưa bao lâu, đang hăng hái hoạt động cách mạng thì bị bắt, điều đó đã mang đến trong lòng tác giả, một con người vừa tìm được con đường sáng sau những năm tháng tối tăm, lọc lõng nhiều xúc cảm phức tạp.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm, dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Trong 6 câu thơ đầu tác giả Tố Hữu đã cảm nhận bức tranh thiên mùa hạ rực rỡ và tràn đầy sức sống bằng nhiều giác quan, bao gồm cả thính giác, vị giác, xúc giác. Mùa hè hiện ra thật nhộn nhịp với tiếng tu hú gọi bầy tha thiết, tiếng ve ngân rạo rực, tiếng sáo diều vi vu vang vọng trời đất. Bên cạnh đó còn rực rỡ, tươi tắn với nhiều màu sắc của thiên nhiên như cảnh lúa chiêm vàng xuộm, cảnh “bắp rây vàng hạt” đầy sân, lại thêm cái “nắng đào”, ấm áp chói chang, mang đến cảnh tượng trù phú, mùa màng bội thu, tràn đầy sức sống.
Không dừng lại ở đó mùa hè còn hiện ra thông qua những cảm nhận từ vị giác, với vị ngọt dịu của lúa chiêm đang dần chín, vị ngọt đậm của trái cây đang vào mùa. Xa xăm hơn, cảnh ngày hè còn đặc biệt ấn tượng với khung cảnh bầu trời trong xanh, không một gợn mây, rộng lớn, cao vút, tô điểm trên nền trời ấy là cảnh từng con diều sáo đang lộn nhào:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Câu thơ gợi ra khung cảnh bình yên, tự do và tràn đầy sức sống, càng đặc biệt hơn khi bức tranh thiên nhiên tràn đầy âm thanh và sắc màu đó lại được nhà thơ cảm nhận qua song sắt chật hẹp của nhà tù. Điều đó đã bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của tác giả. Không chỉ là lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, mà ở sáu câu thơ đầu những hình ảnh thiên nhiên đậm hương sắc, còn bộc lộ tấm lòng khao khát tự do, muốn thoát khỏi cảnh tù đày, để hòa vào cuộc sống thiên nhiên tươi đẹp, để tiếp tục thực hiện lý tưởng còn dang dở. Sâu xa hơn nữa, bức tranh hè rực rỡ còn bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ cách mạng “thân thể ở trong lao, tâm hồn ở ngoài lao”, khi mà song sắt, tường dày cũng chẳng thể nào ngăn nổi ý chí chiến đấu, không thể dập tắt được ngọn lửa cách mạng đang sục sôi trong tâm hồn của người lính trẻ. Dù đang bị giam cầm, khốn khổ với cảnh tù đày, thế nhưng Tố Hữu vẫn rất yêu đời, lạc quan, vui vẻ, hướng về cuộc sống tự do bên ngoài. Đó là một phẩm chất vô cùng tốt đẹp, sáng ngời của người chiến sĩ cách mạng.
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”
Ở bốn câu thơ cuối, tâm trạng của tác giả càng được bộc lộ rõ. Tiếng tu hú càng tha thiết như vẫy gọi người chiến sĩ thoát ra khỏi lồng giam tăm tối về với thế giới tự do, hòa vào mùa hè sôi động, tiếp tục chiến đấu. Từ tấm lòng khao khát tự do, khao khát được chiến đấu, cùng với sự đau khổ, tù túng khi bị giam cầm đã khiến tác giả có xúc cảm mạnh muốn phá tan cái lồng giam ngột ngạt của quân thù để trở về với tự do, trở về với sự nghiệp cách mạng còn dang dở.
Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” càng bộc lộ rõ sự tức giận, phẫn nộ, uất hận của tác giả với tình trạng tù túng, mất tự do của hiện tại. Mà lúc này đây tiếng tu hú kêu, cái nóng bức của ngày hè lại càng làm cho cảm giác ấy càng trở nên rõ nét, trở thành một nguồn lửa nóng không ngừng cuồn cuộn trong trái tim người chiến sĩ, khiến ông vô cùng bực bội, khao khát được trở về với tự do càng thêm cháy bỏng, mạnh mẽ. Kết thúc bài thơ với tâm trạng bức bối, chững lại và nhiều xúc cảm dồn nén như thế chính là dự báo về một sự đột phá, một con đường mới để thoát khỏi cảnh tù đày, tìm về với tự do và sự nghiệp cách mạng của người chiến sĩ trẻ.
Khi con tú hú là một trong những tác tiêu biểu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác thơ ca trữ tình chính trị của Tố Hữu với nguồn xúc cảm tươi trẻ, tràn đầy sức sống mạnh mẽ, ý chí chiến đấu kiên cường. Tác phẩm tinh tế bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, khát khao tự do tha thiết cháy bỏng, cũng như lòng căm thù, phẫn nộ trước cảnh tù đày, cùng với sự mạnh mẽ muốn phá tan xiềng xích phi nghĩa để về với tự do của người chiến sĩ trẻ.
3.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 3 (Chuẩn)
Tố Hữu sinh năm 1920, là nhà thơ lớn của văn học cách mạng Việt Nam. Cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ của ông có sự thống nhất, hài hòa. Hồn thơ Tố Hữu trong trẻo, ngọt ngào, da diết mà sâu lắng với hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà giàu chất tạo hình, khơi gợi bao cảm xúc lắng đọng trong lòng người. “Khi con tú hú” là một thi phẩm thành công tiêu biểu cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ được in trong phần Xiềng xích thuộc tập thơ Từ ấy. Tác phẩm được viết vào tháng 7 năm 1939, khi tác giả đang bị giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài thơ đã thể hiện lòng yêu cuộc sống và trái tim khát khao về sự tự do cháy bỏng của nhà thơ trong cảnh tù đày.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Những câu thơ lục bát thanh thoát mở đầu bài thơ gợi ra một bức tranh mùa hè xinh đẹp, và căng tràn nhựa sống. Một thế giới rộn ràng với những hình ảnh, âm thanh sống động được mở ra: Đó là hình ảnh của lúa chiêm, của tiếng ve, của hạt bắp, của bầu trời cao rộng với những cánh diều bay lượn hay những trái cây đượm ngọt,…Âm thanh đặc trưng khi hè đến là tiếng chim tú hú, là tiếng ve ngân vang trên những cành cây trong vườn nhỏ. Tiếng tu hú, tiếng ve gọi hè về khiến khu vườn trở nên tươi vui hẳn, những bản hòa ca, những thanh âm diệu kì của cuộc sống góp vào hè nét sống động, nên thơ.
Hè đến, cảnh vật còn được điểm tô bởi những gam màu rực rỡ, tươi tắn: Đó là sắc vàng của những lúa chiêm đang reo vui rộn rã trên cánh đồng quê “lúa chiêm đang chín”, là sắc vàng đậm của bắp rây “bắp rây vàng hạt”. Đó còn là màu hồng của “nắng đào”, màu xanh lá của cỏ cây và sắc xanh biếc của mây trời “trời xanh”. Tất cả hòa vào không gian cao rộng tạo nên một vẻ đẹp xao xuyến lòng người.
Bằng cảm nhận tinh tế của mình, tác giả gợi mùa hè không chỉ qua hình ảnh, âm thanh, màu sắc mà hè còn được gợi ra bởi những hương vị thanh khiết của tự nhiên. Hương nồng nàn của lúa bắp, hương dịu ngọt của trái cây trong vườn nhà vào độ chín, hương tinh khiết của nắng trời hòa vào bầu không khí trong lành khiến mùa hè càng thêm quyến rũ. Tác giả sử dụng các phó từ như “đang”, “dần”, “càng”, kết hợp khéo léo với các tính từ “chín”, “ngọt”, “rộng”; những động từ “gọi”, “ngân”, “lộn nhào” cũng được sử dụng vô cùng linh hoạt diễn tả được sự vận động bên trong của cảnh vật. Mùa hè sôi động, dạt dào sức sống, cảnh vật không hề tĩnh tại mà luôn vận động, luôn hướng về sự sống.
Qua bức tranh mùa hè đẹp đẽ, đầy khoáng đạt, tự do và thanh bình ấy, ta cảm nhận được một tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mãnh liệt của tác giả. Trong chốn ngục tù chật hẹp có thể chôn chân người lính trẻ nhưng nào có thể trói buộc tâm hồn trẻ trung, yêu đời kẻ thiết tha với nhân dân, với cuộc đời. Mùa hè tươi vui ấy phải chăng là tiếng gọi của tự do, của cuộc sống bên ngoài, của nỗi khát khao tự do mãnh liệt của một trái tim trẻ tuổi đang bị giam cầm.
Vốn đang say mê với lý tưởng, nhiệt huyết, niềm vui phơi phới đang ngập tràn trong tim, trở về với hiện thực khắc nghiệt, bị bó buộc tự do trong phòng giam chật chội, tù túng, bí bách khiến người lính trẻ không khỏi ngột ngạt, bức bối:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Mùa hè đang vẫy gọi, cuộc sống tự do, tươi đẹp bên ngoài đón chờ khiến lòng người không khỏi rạo rực, băn khoăn. Các tính từ, động từ mạnh như “ngột”, “chết uất”, “đạp” được sử dụng kết hợp với các từ cảm thán “ôi”, “thôi” cùng nhịp thơ bất thường 6/2; 3/3 nhấn mạnh cảm ngột ngạt đến cao độ và nỗi khát khao mãnh liệt được bước ra cuộc sống bên ngoài của người tù cách mạng. Những cảm xúc, tâm trạng phơi phới của tác giả trong những ngày được cống hiến, được say sưa với cuộc đời trước đây dường như bị thay thế bởi nỗi buồn đau đến tột độ khi bị giam cầm trong bốn bức tường lạnh lẽo. Bốn câu thơ khiến ta nhớ đến những lời cùng tâm trạng mà ông từng viết:
“ Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”
Nỗi ngột ngạt bủa vây lấy tâm trí, ôm lấy tâm hồn người chiến sĩ, lời thơ buông theo cảm xúc uất ức, bức bối buông ra trong từng hơi thở, tất cả như muốn biến thành hành động phá tan xiềng xích để chạm lấy tự do “đạp tan phòng”, để vượt thoát ra ngoài. Nơi ấy có nhân dân mình, có đồng đội, đồng chí, nơi ấy có tự do để đôi chân được tiếp tục say sưa với cách mạng.
Âm thanh của tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ là một tín hiệu nghệ thuật độc đáo. Nếu tiếng chim tu hú ở đầu bài là tiếng chim gọi hè, sứ giả báo hiệu mùa hè đến, mở ra một khung cảnh mùa hè rộn ràng, đẹp đẽ thì tiếng tu hú cuối bài là tiếng kêu đầy khắc khoải, da diết gợi sự bức bối, thôi thúc khát khao cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là tiếng gọi của tự do- một tiếng gọi tha thiết mà đầy quyến rũ.
Bàng thể thơ lục bát giản dị mà nhịp ngàng, uyển chuyển cùng dòng cảm xúc tự nhiên, Tố Hữu đã viết nên một bài thơ đượm cảnh- đượm tình. Cảnh thì đẹp, dạt dào sức sống, tình thì sôi nổi, da diết mà sâu sắc. Một biểu hiện của lòng yêu nước, đẹp đẽ, sáng trong và mãnh liệt được hội tụ trong từng lời thơ, toát ra trong từng nhịp điệu của thi phẩm. Bài thơ đã gieo vào lòng bao thế hệ đọc giả lòng yêu nước thiết tha và tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống trên quê hương mình.
4.Cảm nhận bài thơ Khi con tu hú, mẫu 4 (Chuẩn)
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là ngôi sao sáng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, được tôn vinh là nhà thơ của nhân dân. Chặng đường thơ của ông gắn liền với chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Bài thơ “Khi con tu hú” sáng tác vào tháng 7/1939 khi tác giả bị bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ được coi là bức tranh tinh thần của Tố Hữu trong giai đoạn đầu giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng. Qua bài thơ, chúng ta có thể cảm nhận được tâm tư người chiến sĩ cách mạng bị giam giữ chốn ngục tù, niềm khao khát cuộc sống tự do cùng lí tưởng cách mạng của tác giả.
Tác phẩm có một nhan đề độc đáo, gợi mở mạch cảm xúc cho toàn bài thơ. Về cấu trúc, “Khi con tu hú” chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý, tạo nên cách nói nửa chừng gợi sự tò mò, thu hút đối với độc giả. Trong sáu câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện bức tranh thiên nhiên tươi sáng và dạt dào sức sống. Hàng loạt hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của mùa hè đã hiện ra: Lúa chiêm đang chín, trái cây đương chín, đôi diều sáo, bắp vàng, sân, vườn. Đó là những dấu hiệu vô cùng thân thuộc và gần gũi khi hè về:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”
Những bài Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú hay nhất
Bằng tâm hồn tinh tế cùng giác quan nhạy cảm, tác giả đã tạo nên một bức tranh mùa hè sôi động và đậm chất hội họa với những nét vẽ về âm thanh, màu sắc, hương vị, không gian. Đó là thanh âm “tiếng chim tu hú gọi bầy”, “ve ngân” – những tín hiệu quen thuộc mỗi khi hè về gợi sự tươi vui, rộn rã. Bức tranh còn thêm phần rực rỡ với những gam màu tươi tắn: sắc vàng của “lúa chiêm đang chín”, “bắp rây vàng hạt”, sắc đào của nắng, sắc xanh của bầu trời. Đặc biệt, hương vị ngọt ngào đã được khắc họa thông qua mùi thơm của lúa, vị ngọt của trái cây. Không gian hiện lên cao rộng với sự xuất hiện của hình ảnh “đôi con diều sáo”. Đó không phải là những cánh diều lững lờ trôi êm đềm trên những cánh đồng lúa “thẳng cánh cò bay” mà hiện lên qua trạng thái “lộn nhào”, thả sức bay lượn giữa không trung, gợi sự khoáng đạt, tự do. Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ cho biểu tượng của cuộc sống tự do đang vẫy gọi? Phải chăng người chiến sĩ cách mạng đang thực hiện một cuộc vượt ngục tinh thần để thỏa sức bay lượn những những cánh diều? Tác giả đã sử dụng những phó từ chỉ thời gian như “đang, dần, càng”, kết hợp với các động từ mạnh “gọi”, “ngân”, “lộn nhào” để thể hiện sự vận động không ngừng nghỉ của cảnh vật. Như vậy, ở sáu câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể cảm nhận được bức tranh vào hè sôi động, rực rỡ và tràn đầy sức sống – một bức tranh đồng nội quê hương thật gần gũi, thân thuộc. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên, cảm nhận tinh tế với mọi biến chuyển của cảnh vật, gắn bó tha thiết với cuộc sống bên ngoài của tác giả. Ở bốn câu thơ tiếp theo, người chiến sĩ quay trở về với cuộc sống hiện tại:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”
Cảm xúc của người chiến sĩ cách mạng đã được bộc lộ một cách trực tiếp. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: “đạp tan”, “ngột”, “chết uất” kết hợp với những từ cảm thán “ôi”, “thôi”, “làm sao”. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được tâm trạng u uất, ngột ngạt, bức bối. Lúc này, nhà thơ đang bị bắt giam trong bốn bức tường của nhà tù lạnh lẽo. Tiếng đời cuộc sống ngoài kia cứ vẫy gọi, khiến cho tâm trạng người tù chiến sĩ cách mạng càng trở nên u uất, bức bối. Tất cả như những đợt sóng dồn dập và bủa vây lấy tâm trí tác giả, khiến khát vọng tự do trở nên tha thiết hơn bao giờ hết như muốn bật tung ra để trở về với cuộc sống sôi động bên ngoài. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh “Khi con tu hú gọi bầy”, đồng thời kết thúc bằng “Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Nếu như tiếng chim ở đầu bài thơ là tiếng gọi đàn – tín hiệu, là sứ giả bắt nhịp cho dàn đồng ca mùa hè, mở ra khung cảnh mùa hè đẹp đẽ, rộn ràng, tươi vui thì ở cuối bài thơ, âm thanh tu hú “ngoài trời cứ kêu” là tiếng kêu khắc khoải, da diết, gợi lên sự bức bối, ngột ngạt và thôi thúc khát vọng tự do đang cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ. Như vậy, thông qua bốn câu thơ cuối, chúng ta có thể thấy được bức tranh tâm trạng tù túng, u uất và khát vọng tự do cháy bỏng trong tâm trạng người tù chiến sĩ cách mạng. Qua đó, cảm nhận sâu sắc về lòng yêu tự do cùng cuộc sống của tác giả.
Như vậy, bằng việc sử dụng thể thơ lục bát dân tộc uyển chuyển, linh hoạt; hình ảnh thơ phong phú, đậm chất hội họa và giàu sức gợi cùng giọng điệu thơ tự nhiên, tác giả đã tái hiện bức tranh mùa hè vui tươi, căng tràn sức sống cùng tiếng lòng cháy bỏng với khao khát tự do của người tù cách mạng. Qua đó, độc giả có thể cảm nhận được sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lí tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu ngọn bút của nhà thơ Tố Hữu.
5. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 5 (Chuẩn):
Tố Hữu là nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ ca Cách mạng. Con đường thơ của Tố Hữu có sự hòa quyện thống nhất với cuộc đời cách mạng. Có thể nói những kho tàng thơ văn của ông chính là cuốn biên niên sử bằng thơ bởi mỗi sự kiện, từng bước chuyển mình của lịch sử được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm. Bài thơ Khi con tu hú được sáng tác năm 1939 khi Tố Hữu đang bị giam giữ trong nhà ngục ở Thừa Thiên. Bài thơ là lòng yêu cuộc sống và khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi.
Mở đầu bài thơ là tiếng tu hú đang cất lên từng hồi tha thiết. Tu hú là loài chim rất đặc trưng của mùa hè, tiếng chim tu hú ấy cất lên không chỉ gọi mùa hè tới mà còn đánh thức đánh thức tình yêu cuộc sống, yêu tự do đang âm ỉ cháy trong lòng người chiến sĩ cách mạng:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Bức tranh thiên nhiên mùa hè tươi mát, sống động mở ra trước mắt độc giả. Bức tranh ấy có đủ âm thanh, màu sắc, những hình ảnh sống động và cả không gian rộng lớn, khoáng đạt. Âm thanh tiếng tu hú, tiếng ve, tiếng sáo diều vi vu làm cho bức tranh mùa hè trở nên sôi động, náo nhiệt. Điểm xuyết cho bức tranh tươi vui, rộn rã ấy là những gam màu rực rỡ, tươi sáng, đó là màu vàng rực của lúa chín, bắp rây, màu nắng “đào” ửng hồng, màu xanh của da trời lồng lộng, màu của trái cây đang độ chín. Không gian cao rộng của bầu trời và hình ảnh những con diều sáo lộn nhào “từng không” càng tô đậm thêm ấn tượng về một không gian rộng lớn, khoáng đạt, đó là thế giới của sự sống, là thế giới của tự do . Bức tranh mùa hè rực rỡ, căng tràn sự sống được Tố Hữu cảm nhận bằng nhiều giác quan và bằng chính trái tim nhạy cảm, tha thiết yêu đời, yêu tự do của người thi sĩ, chiến sĩ.
Tố Hữu giác ngộ Cách mạng từ năm mười tám tuổi, khi còn là một chàng trai bơ vơ giữa cuộc đời. Khi dấn thân vào con đường Cách mạng, ông hiểu rõ:
“Đời cách mạng từ đây tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày”
Giờ đây, ông càng hiểu rõ hoàn cảnh của mình, thế nhưng, một người cách mạng nhiệt huyết làm sao có thể chịu nổi cái cảnh tù đày ngột ngạt này. Nó bức bối quá, ngột ngạt quá, khiến ông phải thốt lên:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết uất thôi
Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”
Khung cảnh mùa hè ngoài kia đẹp quá đỗi mà tiếc rằng nó chỉ ở trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Bởi ông đang ở giữa bốn bức tường lạnh lẽo của nhà tù thực dân. Tố Hữu cảm thấy bức bối, ngột ngạt, nhà thơ khát khao được tự do, muốn đắm mình tận hưởng cảnh sắc, hương vị của mùa hè và quan trọng hơn nhà thơ muốn tiếp tục hành trình cách mạng còn dang dở của mình.
Tố Hữu đã dùng ở đây một loạt những động từ mạnh như “đạp tan”, “ngột”, “chết uất” để diễn tả sự ngột ngạt, bức bách đến tột cùng của mình. Ông muốn phá tan xiềng xích, phá tan nghịch cảnh để trở về với tự do, trở về với sự nghiệp cách mạng. Cái cảm xúc bức bối ấy được thể hiện càng rõ hơn qua các từ cảm thán như “ôi, làm sao, thôi”. Nhịp thơ ở đoạn thơ này cũng dồn dập, mạnh mẽ hơn đoạn thơ trước, nó như dòng sông cảm xúc cuộn trào trong lòng người thì sĩ.
Bài thơ mở ra bằng tiếng chim tu hú, kết lại cũng bằng tiếng chim tu hú tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng. Nếu ở đầu bài thơ, tiếng chim tu hú gọi về mùa hè, đánh thức tình yêu cuộc sống mãnh liệt nơi tâm hồn nhà thơ thì tiếng chim tu hú cuối bài lại đẩy sự bức bối, u uất của nhà thơ lên cao trào. Tiếng chim tu hú là biểu tượng cho tự do, cho sự sống, tiếng chim ấy khiến người tù cách mạng trẻ tuổi phải bồn chồn, bức bối, ngột ngạt đến tận cùng! Ông muốn thoát ra để hòa mình vào thiên nhiên, hòa mình mà tận hưởng tiếng tu hú ấy!
Bài thơ Khi con tu hú được viết bằng thể thơ lục bát hết sức quen thuộc với người dân Việt Nam ta với nhịp thơ linh hoạt. Theo dòng cảm xúc của nhà thơ khiến người đọc như được hòa mình vào dòng cảm hứng bất tận của Tố Hữu. Hơn thế, những ngôn từ trong thơ vô cùng giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, ca từ da diết, thể hiện một tình yêu tha thiết vào cuộc sống, một khát khao tự do mãnh liệt.
Khi con tu hú là bài thơ được viết vào năm Tố Hữu mới chỉ mười chín tuổi. Thế nhưng, cũng như Từ ấy, bài thơ minh chứng cho một tài năng thơ ca cực kỳ xuất sắc. Đó là tấm lòng yêu cuộc sống sâu sắc, khát khao tự do cháy bỏng của người tù cách mạng trong hoàn cảnh tù đày.
6. Bài văn Cảm nhận Khi con tu hú của Tố Hữu, mẫu số 6:
Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày “ác mộng” bị cùm trói trong nhà lao Thừa Thiên. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tâm trạng nghệ thuật, đồng hiện qua 10 câu thơ lục bát da diết và ám ảnh. Cái mùa hè hơn 70 năm về trước ấy thật không bao giờ có thể quên!
1. Tiếng chim tu hú vọng qua song sắt nhà tù hay tiếng chim trong nỗi nhớ, trong hoài niệm?
Chim thì “gọi bầy”. Lúa chiêm thì “đương chín”. Trái cây thì “ngọt dần”. Âm thanh ấy, hương vị ấy thể hiện nỗi nhớ đồng quê, nhớ làng xóm thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Một giọng thơ bồi hồi tha thiết: “Nghe chim như nhắc tấm lồng thần hôn” (Truyện Kiều):
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”
Giữa chốn ngục tù “lòng sôi rạo rực”, người chiến sĩ trẻ nhớ “tiếng ve ngân”, nhớ màu “vàng” của bắp, nhớ màu “đào” của nắng. Cánh sắc đồng quê trong hoài niệm trào lên trong tâm hồn biết bao bình dị, thân thiết, yêu thương:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào”.
Có khao khát sống mới có nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve chứa đầy tâm trạng. Ve không kêu mà là “ve ngân”. Sáu trăm năm về trước, Nguyễn Trãi lấy tiếng ve để nói về cảnh tình mùa hè:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
(Quốc âm thi tập)
Sau này, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu lại viết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng”.
Sau tiếng ve là màu “vàng” của bắp, là màu “đào” của nắng hiện lên. Chữ “ngân” tả tiếng ve “sôi” lên và ngân dài trong vườn quê. Chữ “đầy” gợi nắng đẹp, nắng chan hòa, nắng đầy sân, nắng rực rỡ. Nỗi nhớ trở nên bồi hồi: nhớ bầu trời xanh, nhớ con diều sáo “lộn nhào” giữa cái mênh mông “cao rộng” của từng không. Hình ảnh con diều “lộn nhào từng không” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự tung hoành và khát vọng tự do:.
“Trời xanh ccìng rộng càng cao,
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu. Thơ nên nhạc, nên họa. Ngôn từ trong sáng, tinh luyện. Mỗi chữ được dùng như được chắt lọc qua hồn quê và hồn thơ đậm đà: “đương chín”, “ngọt dần”, “dậy tiếng ve ngân”, “đầy sân nắng đào”, “xanh, rộng, cao”, “lộn nhào”…
Trẻ trung và yêu đời, say mê và khao khát sống, khao khát tự do. Nhà thơ đang bị đày đọa trong ngục tối, nhưng ” tinh thần ở ngoài lao” mới có cảm xúc, cảm hứng ấy.
2. Giọng thơ từ tha thiết nhớ chuyển thành uất hận sục sôi:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chán muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Mùa hè đã đến, mùa hè đang qua. Bao âm thanh đã “dậy bên lòng”, thôi thúc, gịuc giã: “muốn đạp tan phòng” xà lim chật chội. Không cam chịu cảnh tù đày! Lòng uất hận dâng trào muốn phá tung chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao / chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc như nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống vì tự do! Quyết chết vì tự do! Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú “gọi bầy”, khép lại bài thơ là tiếng chim tu hú ”ngoài trời cứ kêu”. Tiếng chim vừa gợi nhớ gợi thương, vừa giục giã lên đường chiến đấu.
“Khi con tu hú” là khúc ca tâm tình, là tiếng gọi đàn, hướng về đồng quê và bầu trời tự do với tất cả tình yêu và niềm khao khát cháy bỏng. Bài thơ ghi lại một nét đẹp bức chân dung tinh thần tự họa của người thanh niên cộng sản Tố Hữu thuở ấy. Để ta ngưỡng mộ và tin yêu.
7. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 7:
Tố Hữu viết bài thơ “Khi con tu hú” vào tháng 7 năm 1939 sau gần 100 ngày bị giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế). Không gian, thời gian, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện qua những câu thơ đặc sắc trong bài thơ.
Bài thơ bắt đầu bằng tiếng chim tu hú gọi bầy vang vào ngục thất, nơi có một tù nhân đang bị giam cầm. Tiếng chim tu hú đã gợi lên trong tác giả nhiều điều về nỗi nhớ và hoài niệm. Tu hú thì gọi bầy; lúa chim thì đương chín, trái cây thì ngọt dần. Âm thanh và hương vị thể hiện một khung cảnh của làng quê thân yêu. Chữ “đương chín” và “ngọt dần” gợi tả sự trôi qua của thời gian một cách chậm chạp. Giọng thơ bồi hồi và da diết xuất phát từ không gian mênh mông:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chim đương chín, trái cây ngọt dần.
Giữa chốn ngục tù lòng sôi rạo rực, người chiến sĩ nhớ tiếng ve ngân, nhớ màu vàng của bắp, màu đào của nắng. Khung cảnh cánh đồng quê hiện lên một cách bình dị, thân thiết, yêu thương:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Chỉ có những ai có khát vọng sông mới có được nỗi nhớ ấy. Vần thơ đầy màu sắc, ánh sáng và âm thanh. Tiếng ve ngân chứa đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng ngột ngạt, tù túng nơi buồng giam; là tất cả những gì tác giả đã cảm nhận trong những ngày tháng tự do. Sau tiếng ve là màu sắc của thiên nhiên, của nắng và của bắp. Những thứ hết sức bình dị trong cuộc sống hàng ngày giờ trở thành những hình ảnh hết sức đẹp trong thơ Tô’ Hữu. Chữ “ngân” diễn tả thời gian kéo dài còn từ “đầy” diễn tả không gian có ánh nắng chan hòa và rực rỡ.
Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú, văn mẫu tuyển chọn
Nỗi nhớ của tác giả trở nên bồi hồi hơn với bầu trời xanh nơi có đôi diều sáo đang nhào lộn. Sự khoáng đạt của không gian là thế, mênh mông là thế, nó hoàn toàn trái ngược với sự chật chội nơi tác giả đang trú ngụ. Hình ảnh con diều lộn nhào từng không mang ý nghĩa cho sự tung hoành và khát vọng tự do, đó cũng chính là khát vọng cháy bỏng của tác giả hôm qua, hôm nay và mai sau:
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.
Sáu câu thơ đầu làm hiện lên bức tranh đồng quê thân yêu, nó không dừng lại ở câu thơ mà đã nên nhạc, nên họa. Ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt và giàu tính hình ảnh. Các câu thơ đã thể hiện sự trẻ trung và yêu đời, niềm khát khao và say mê cuộc sống. Có thể nói nhà thơ đang ở trong lao nhưng tâm hồn thì vẫn hướng về một không gian bao la nơi có bầu trời xanh, có nắng ấm, có tất cả những gì thuộc về cuộc sống tự do ở bên ngoài.
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ đã chuyển từ giọng điệu tha thiết sang giọng điệuuất hận sục sôi.
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
Mùa hè đã đến và đang qua, bao âm thanh của hè đã dậy bên lòng, thôi thúc, giục tác giả đạp tan xà lim chật chội, xóa bỏ cảnh tù đày. Lòng uất hận dâng trào khiến tác giả muốn phá tan chốn ngục tù chật chội và ngột ngạt. Câu thơ “Ngột làm sao chết uất thôi” với cách ngắt nhịp 3/3, cảm xúc được nén xuống bỗng trào lên thể hiện một ý chí bất khuất. Quyết sống chết vì tự do của bản thân cũng như của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ là tiếng chim tu hú gọi bầy, khép lại bài thơ cũng là tiếng chim tu hú. Tiếng chim vừa gợi nhớ yêu thương, vừa như giục giã nhà thơ nhanh chóng về với cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng.
8. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 8:
Tố Hữu – một chiến sĩ cách mạng, đồng thời là một nhà thơ cách mạng. Bài thơ “Khi con tu hú” sáng tác năm 1039 – lúc tác giả còn rất trẻ, đang bị thực dân Pháp bắ giam ở Huế.
Nhiệt tình yêu đời, khát vọng tự do, tinh thần hăng say hoạt động của nhà thơ nổi bật trong bài “Khi con tu hú” thức dậy trong lòng chàng trai cả một bài ca sôi động, một đất trời tự do mà chàng yêu vô hạn, một ý chí vượt khỏi cảnh ngục tối ngột ngạt khi hè đang về ngoài kia. Tiếng chim tu hú ở đây khác nào tiếng gọi của cuộc đời, lời thôi thúc của cuộc đấu tranh.
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”
Ta tưởng như hai câu thơ này không phải bay lên từ mái nhà tù mà đang tuôn ra từ cây bút đứng ở đầu một làng quê thật đẹp, có cánh đồng lúa, có cây quả chín về mùa hè như vải, nhãn…
Cái sinh khí của mùa hè đang dậy lên mãnh liệt. Con chim hay ăn quả ngọt tíu tít gọi nhau, lúa chiêm đang chuyển từ màu xanh sang màu vàng nâng dần thân hạt cho to thêm và trên cây một hương vị ngọt ngào đang theo nắng, sương mù rót vào quả chuyển chất chua thành ngọt!
Lạ nữa là những câu thơ dưới đây vẫn chưa có cái bóng dáng gì về hoàn cảnh của người làm thơ đang ở trong tù, mà như ai đó đứng ở ngoài sáng mắt mới quan sát được cảnh vật mùa hè đang xao động trong một không gian rộng lớn:
“Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt, đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu
Sức sống của mùa hè, dưới ngòi bút của nhà thơ là bức tranh phong cảnh của nông thôn ở độ dạt dào!
Tiếng ve ngân râm ran ở một cây nào đó, trước một sân phơi màu nắng còn non lửa mặt trờ nên thành một thứ nắng đào “vàng nhật”. Đó là trên mặt đất. Còn cái vòm trời cao rộng ngất nghểu kia thì có đôi con điều sáo cho đảo lộn nhào bên nhau. Như thế là bức tranh có cảnh gần cảnh xa, dưới thấp, trên cao, có màu xanh diệp lục của lá cây, màu vàng của bắp, màu “nắng đào” của trời và ngập tràn ánh sáng cho đôi con diều tung hoành trong không gian.
Ôi! Những vần thơ thật là đẹp, tình tứ, đạm đà biết bao.
Nhưng đến mấy câu thơ này thì những cảnh đẹp, những sinh lực, những ngọt ngào bõng biến mất chỉ còn để lại một mùa hè oi bức, ngột ngạt mà nhà thơ người tù chỉ muốn co chân đạp thật mạnh cho gian phòng tan ra:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!”
Thì ra, trên kia nhà thơ ngồi trong tù tưởng tượng ra cái thiên nhiên như mình đang nghĩ đến. Đó là mảnh tự do của tâm hồn thoát khỏi song sắt mà thôi.
Thực trạng thì nhà thơ đang ở trong tù, đang bực dọc, bực sốt, thế mà những vần thơ trênđây vẫn cụ thể, tươi sống.
Lạ thay ở chỗ thiên nhiên bên ngoài thì rực rỡ vậy gọi, mà thực tế bên trong thì bị nhốt trong những bức tường vôi xám lạnh. Nếu mùa hè đã mang lại chút gì đó để hồn thơ vang vọng được với đất trời, thì mùa hè lại là nhà thơ:
“Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Cảm xúc của nhà thơ bắt đầu bối rối, ngột ngạt đến tột cùng vì vẫn là:
“Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”
Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ là sự kết cấu hai tầng của không gian (ngoài tù, trong tù), hai cảnh vật đối lập nhau, sự bung ra với sức dồn nén làm bật ra niềm khao khát tự do của người chiến sĩ trẻ trên cái nên của mùa hè đầy sinh lực.
Nếu không có một tâm hồn hòa quyện với thiên nhiên làm sao có thế miêu tả một mùa hè như vậy. Bài thơ để lại cho người đọc hai tiếng kêu: tiếng kêu của con chim tu hú và tiếng thét uất hận có tính chất phản kháng tự do của người tù.
9. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 9:
Cái tên bài thơ “Khi con tu hú”, mấy chữ đó chỉ là một mệnh đề phụ, một câu nói nửa chừng… Qua nội dung bài thơ, người đọc có thể hiểu: Khi chim tu hú kêu, gọi mùa hè về, người tù cách mạng (nhân vật trữ tình) càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong cái phòng giam chật chội này, càng thèm khát cháybỏng cuộc sống tưng bừng, tự do bên ngoài… Cách đặt tên bài thơ như thế của Tố Hữu có tác dụng chuẩn bị cho người đọc đi vào mạch cảm xúc của bài thơ.
Tiếng chim tu hú là âm thanh báo hiệu hè về. Mùa hè với không gian bao la, ánh nắng rực rỡ, sự sống trởnên rộn rã tưng bừng… Tiếng chim đã làm bừng dậy tất cả trong lòngngười tù cách mạng trẻ tuổi đang bị nhốt chặt trong phòng giam chật chội. Tiếng chim tu hú với tác giả lúc này chính tiếng gọi của bầu trời tự do của sự sống tưng bừng đã vang động sâu xa trong tâm hồn người tù đang cảm thấy vô cùng ngột ngạt vì thèm không gian và sự sống ấy.
Sáu câu lục bát thật trong trẻo, thanh thoát, nhưng đã mởra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Đó là khi hè sang, nắng đào rực rỡ, lúc chiêm chín vàng trên cánh đồng và trái cây đượm ngọt trong vườn, hạt bắt rây vang…, đó là tiếng ve vang trong vườn râm và tiếng tu hú kêu vang ngoài bão; nó là bầu trời xanh biếc cao lồng lộng và rộng tới vô tận để cho những cánh diều sáo thỏa sức nhào giữa tầng không… Tất cả sự sống như bừng dậy như bước vào độ chín, tất cả đều chan hòa ánh sáng, rực rỡ rộng hơn, khoáng đạt hơn. Tiếng chim tu hú kêu như là tiếng gọi của mùa hè; tiếng chim ấy thức dậy tất cả, mở ra tất cả và bắt nhịp cho tất cả…
Thực ra, đây chỉ cảnh mùa hè trong tâm tưởng của người chiến sĩ trẻ đang trong “cảnh thân thù”. Càng cảm thấy ngột ngạt chết uất trong phòng giam chật chội, anh càng cảm thấy cảnh mùa hè ngoài kia mới tưng bừng, rộng rãi, mới quyến rũ biết bao! Với niềm thèm khát tự do, thèm khát sự sống cháy ruột, người tù cách mạng đã huy động mọi giác quan căng ra đón nhận mọi tín hiệu của thế giới sự sống bên ngoài; và anh đã mường tượng ra cả một bầu trời tự do bao la, một không gian tràn đầy sự sống.
Bài vănCảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú
Mấy câu lục bát bình dị, nhẹ nhõm mà đầy ắp hình ảnh âm thanh, màu sắc là hương vị, chẳng những đã tái hiện sinh động cảnh vật mà còn rất gợi không khí vào hè. Đằng sau mấy câu thơ là một tâm hồn thật trẻ trung, yêu đời nồng nàn, gắn bó máu thịt với sự sống, nên rất nhạy cảm để nắm bắt mọi biểu hiện phong phú của sự sống ấy trong tạo vật bao la.
Nếu sáu câu trên là cảnh thì bốn câu dưới là tình, là lời phát biểu trực tiếp những cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tiếng chim tu hú gọi trời đất vào hè, và mùa hè đã bừng dậy trong lòng người tù cách mạng, vốn đã rất đau khổ, bực bội vì “cảnh thân tù” đêm ngày hằng thèm khát tự do và thèm khát sự sống, thì giờ đây, anh càng cảm thấy không chịu nổi cái phòng giam ngột ngạt này:
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu
Cùng với ý nghĩ rất táo tợn, dữ dội (chân muốn đạp tan phòng) là cách ngắt nhịp ở hai câu 8, 9 (nhịp 6/2 và nhịp 3/3 gợi cảm giác nhói lên bực bội đến điên người) và giọng điệu cảm thán, dường như cảm xúc bực bội không nén được cứ trào ra (“hè ôi! ngột làm sao, chết uất thôi”) Tất cả đều thể hiện tâm trạng ngột ngạt cao độ và niềm khao khát mãnh liệt hướng về cuộc đời tự do và sự sống bên ngoài.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng chim tu hú kêu, kết thúc cũng bằng tiếng chim tu hú kêu. Nhưng tiếng chim mở đầu bài thơ đã đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do cao rộng và sức sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc và sự sống tràn đầy, thì tiếng chim tu hú kết thúc gọi niềm chua xót, đau khổ. Đólà cách kết cấu tạo được hiệu quả nghệ thuật cao, gây ám ảnh day dứt cho người đọc.
Khi con tu hú chỉ là một bài thơ nhỏ, hình tượng nghệ thuật khá bình dị, không có gì thật tân kì, nhưng là bài thơ thật hay, có sức truyền cảm nghệ thuật mạnh mẽ. Cả hai đoạn tả cảnh (trời đất vào hè) và tả tình (nỗi lòng người tù) đều rất đạt; cảnh thật đẹp và đầy gợi cảm, có hồn, tình (tâm trạng) thì sâu, da diết.
Câu thơ lục bát của bài thơ thật mềm mại, linh hoạt. Ngôn ngữ thơ trong sáng, giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu. Bài thơ liền mạch, cảm xúc nhất quán, giọng điệu tự nhiên, khi tươi sáng khoáng đạt, khi dằn vặt, u uất tất cả đều phù hợp với cảm xúc thơ.
10. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 10:
Người ta nói:
Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại
Nhật kí trong-tù, nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã viết:
Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài
Quả là cuộc sống sự khác biệt lớn lao. Cái hữu hạn, nhỏ bé (“một ngày”).
Mà có thể tương xứng với cái vô cùng, vô tận (“nghìn thu”), như thế đã thấy tâm trạng của người bị giam hãm trong tù nặng nề đến mức nào.
Nỗi nhớ càng lớn hơn khi người tù là một chiến sĩ cách mạng. Nỗi khổ vì vật chất (ăn đói, mặc rách, ghẻ lở,…) có thể vượt qua được nhưng nỗi khổ về tinh thần khi không thế góp sức vào sự nghiệp chung luôn đè nặng lên tâm trí người tù. Trong bài Tâm tư trong tù, Tố Hữu từng viết:
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
“Ở ngoài kia” là không gian tự do, nơi người tù hòa mình trong “tiếng đời lăn náo nức”, tiếng lạc ngựa “rùng chân bên giếng lạnh”, như vẫy gọi, như thúc giục người chiến sĩ xung trận. Trong bài Khi con tu hú, tứ thơ lại được sáng tạo theo một hướng khác, có phần kín đáo hơn. Mới đọc bài thơ chúng ta không biết người thơ đang ở trong tù:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Bài tham khảo Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú
Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt dầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…
Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyến thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở hằng ngày.
Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường. Chừng như để hòa điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cánh diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không”. Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.
Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được thoát khỏi ngục tù. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh huyền ảo, rực rỡ hẳn lên.
Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu.
Ta nghe hè dậy trong lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu. Chỉ trong bốn câu thơ đã có đến ba sắc thái.
Nghe tiếng “hè dậy bên lòng”, người tù muốn phá tung tất cả.
Không thê vượt qua những bức tường nặng nề, nỗi uất ức bị dồn nén, nỗi đau khổ như tạo thành hai hình khối chi qua sáu âm tiết và hai nhịp thơ “Ngột làm sao…”.
Tác giả bật lên lời trách cứ (“Con chim tu hú… cứ kêu”).
Giọng điệu bên ngoài là thế nhưng thực ra đó chính là sự thể hiện nỗi uất ức, đau khổ đã lên đến đỉnh điểm.
Tiếng chim tu hú gọi bầy ấm áp, tươi vui nhưng cứ vô tình khoan sâu vào nỗi khổ của người tù, khơi dậy nỗi uất hận trước tình cảnh thực tại và càng làm bùng cháy lên khát vọng tự do.
Thơ viết trong tù nhưng không có một dòng, một chữ nào nói về nỗi khổ vật chất của người tù. Điều đó cho thây người tù đã vượt lên những nỗi đau vật chất bình thường. Nỗi đau lớn nhất của người tù là nỗi đau của người chiến sĩ cách mạng bị mất tự do, đang khao khát “tháo cũi sổ lồng” để đến với cuộc sống tự do, để được chiến đấu cho cách mạng.
11. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 11:
Tố Hữu là một con chim đầu đàn của nền thơ ca Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Thơ Tố Hữu tràn đầy lý tưởng sống cao đẹp đồng thời thể hiện tinh thần sáng tạo không mệt mỏi trên bước đường nghệ thuật. Chính vì vậy, bài thơ Khi con tu hú trong tập thơ Từ ấy của Tố Hữu-đã có sức cuốn hút độc giả yêu thơ, say thơ, một cách mãnh liệt.
Mở đầu bài thơ là những âm thanh sống động, mở ra một không gian tươi đẹp, thoáng đãng:
“Khi con tu hú gọi bầy”
Trong thi ca Việt Nam, mỗi loài chim kêu, mỗi loài hoa nở, … báo hiệu một mùa khác nhau. Tiếng chim cuốc kêu trong thơ Nguyễn Trãi báo hiệu mùa xuân đã muộn. Tiếng chim quyên nô nức gọi hè dưới trăng thanh trong thơ Nguyễn Du,…. Riêng Tố Hữu, tiếng chim tu hú đi vào thơ khắc khoải báo hiệu mùa hạ đã bước sang. Tiếng chim làm sống dậy những ngày tự do, êm đềm, hạnh phúc. Thuở ấy, Tố Hữu hãy còn bên ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Phải là một trái tim nhạy cảm, rạt rào nhựa sống mới có được cái nghiêng tai tinh tế như thế giữa bốn bức tường hôi hám, chật hẹp, tối tăm,…Tố Hữu hay lắng nghe những âm thanh của cuộc sống đời thường:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ”.
(Tâm tư trong tù)
Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú
Có thể nói, từ tiếng chim tu hú, Tố Hữu đã lắng đọng lòng mình, tập hợp các giác quan và tài năng của người nghệ sĩ để vẽ lên
một bức tranh thiên nhiên mùa hè của miền Trung thân yêu:
“Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”.
Đây là một bức tranh lóng lánh sắc màu: màu vàng óng ả của lúa chín; màu vàng tươi roi rói của hoa quả; màu xanh dịu mát của khu vườn nhiều cây; màu vàng đặc trưng của bắp; màu nắng; màu xanh bao la của da trời. Như vậy hai gam màu vàng và xanh đã tô điểm cho bức tranh thơ thêm những đường nét mỹ miều, rực rỡ, đậm chất đồng quê. Bên cạnh đó, có thanh âm của tiếng ve rộn ràng lảnh lót. Tiếng ve ngân là đặc trưng của mùa hè. Các chú ve dạo bản đồng ca chào đón đức vua mùa hạ đến ngự trị. Nếu thiếu tiếng ve thì nét sinh động, nhộn nhịp của bức tranh thơ giảm đi nhiều lắm. Hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không” là nét chấm phá độc đáo làm cho cuộc sống nơi thôn quê trở nên có hồn và thi vị hơn. Nhà thơ lấy cái hữu hạn (con diều sáo) đế biểu thị cái vô hạn (từng không). Không gian của bức tranh thơ được mỏ’ ra thoáng đãng và tiến tới vô tận.
Trên đây chỉ là bức tranh mùa hè được vẽ trong tâm tưởng của một con người trẻ tuổi đắm say lý tưởng đẹp. Dù chỉ một chút tình quê nhưng rất đáng được nâng niu, quý trọng. Còn thực tế thì sao?
Nhà thơ đang đối diện với bốn bức tường nóng bức ngột ngạt:
“Ta nghe hè dậy bền lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! (câu 8)
Ngột làm sao, chết uất thôi (câu 9)
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”.
Từ “dậy” trong tiếng Việt, theo Từ điển của Nguyễn Văn Xô có ba nghĩa chính: cất mình lên; nổi lên; vang ầm. Chúng ta có thể hiểu mùa hè đã nổi lên trong lòng nhà thơ ở đỉnh điểm. Hòa với nhịp thơ ỏ’ câu 8 là 6/2; ở câu 6 là 3/3 gợi cảm giác phẫn uất, bực bội, căng thẳng tột độ của hệ thống thần kinh trung ương đồng thời cũng thể hiện được sức mạnh và ý chí anh hùng của tuổi trẻ. Bởi thế, Tản Đà nói: “Tài cao phận thấp chí khí uất”. Điều đó cũng không sai đối với Tô” Hữu. Riêng câu thơ “Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi” gợi cho chúng ta nhớ tâm trạng của Nguyễn Hữu cầu:
“Bay thẳng cánh muôn trùng Tiều, Hán Phá vòng vây bạn với kim ó”.
Phải chăng giữa Nguyễn Hữu cầu và Tố Hữu có cùng chung một ước vọng anh hùng của đấng nam nhi? Tiếng kêu “Ngột làm sao, chết uất thôi” của Tố Hữu cũng là một tiếng kêu xé lòng của một lớp thanh niên ham sống, đầy nhiệt huyết, mong muốn đối đời của xã hội ta lúc ấy.
Cả bài thơ, Tố Hữu không nhắc đến chữ “tự do” nào nhưng qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng, chúng ta hiểu được nhà thơ nhận biết cái tất yếu đến tầng bậc nào rồi bởi lẽ “Tự do là nhận biết được cải tất yếu” (Các-Mác).
Bài thơ khép lại theo lối “đầu cuối tương ứng”. Nếu câu mỏ’ đầu gợi tiếng chim tu hú khỏe khoắn mời gọi hè thì câu kết thúc tiếng chim tu hú kêu hoài, kêu mãi giữa bầu trời mênh mông như “tiếng gọi hối thúc của thực tại”. Cái kết cấu ấy làm day dứt, xốn xang cõi lòng người đọc.
Tóm lại, Khi con tu hú là một bài thơ hay, lời lẽ mộc mạc, bình dị, dễ hiểu, câu chữ ít nhưng cô đọng, hàm súc. Bức tranh tả cảnh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng hiện lên rất cân xứng. Kết hợp với thể thơ cổ truyền của dân tộc uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu đã để lại sức rung, sức gợi sâu xa, bền bỉ trong lòng những độc giả yêu thơ, say thơ suốt mấy mươi năm qua.
12. Cảm nhận về bài thơ Khi con tu hú, mẫu số 12:
Có những bài thơ để ta yêu. Có những bài thơ để ta nhớ. Bài “Khi con tu hú” của Tố Hữu là một trong những bài thơ để ta nhớ – nhớ tình người và nhớ tình đời một thời gian khổ mà oanh liệt.
Bài thơ này, Tố Hữu viết vào tháng 7 – 1939, khi nhà thơ bước sang tuổi 19, ở nhà lao Thừa Thiên, tư thế hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ gồm 10 câu lục bát, chứa đầy tâm trạng. Sáu câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ da diết đồng quê. Bốn câu cuối là niềm sục sôi căm hờn uất hận.
Thời kì Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), Tố Hữu được giác ngộ cách mạng, hoạt động bí mật trong học sinh, thanh niên tại thành phố Huế quê mẹ. Tháng 4 – 1939, nhà thơ bị mật thám Pháp bắt giam. Nhiều bài thơ tràn đầy dũng khí cách mạng được viết sau song sắt nhà tù đế quốc, sau này được tập hợp lại trong phần “Xiềng xích” của ‘Từ ấy”.
Sống trong cảnh lao tù ngột ngạt, người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng tâm hồn mình về cuộc sống bên ngoài song sắt nhà tù. Với tâm hồn khao khát tự do và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ lắng nghe mọi âm thanh từ xa vọng đến nơi tối tăm tù ngục.
Tiếng kêu của chim tu hú trên đồng quê nghe bồi hồi, tha thiết. Tiếng chim gọi bầy xa gần vang lên. Tiếng ve ngân lên từ những vườn cây trái đôi bờ sông Hương suốt đêm ngày nghe dắng dỏi. Tiếng sáo diều trên đồng quê gợi nhớ gợi thương một thời cắp sách với bao kỉ niệm đẹp:
“Khi con tu hú gọi bầy
(…) Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Nhớ khúc nhạc đồng quê những âm thanh dân dã bình dị và thân quen ấy vô cùng, bởi lẽ trong cảnh tù đày nhà thơ khao khát một tình quê vơi đầy, nhớ khôn nguôi.
Chân tay bị cùm trói trong bốn bức tường xám lạnh và kín mít, người chiến sĩ vẫn nhìn thấy cảnh sắc quê hương bằng tất cả tấm lòng nhớ quê, yêu quê. Sự tưởng tượng thật phi thường. Trong tâm hồn Tố Hữu lúc bấy giờ, hình ảnh quê hương lần lượt hiện lên như một cuốn phim màu tuyệt đẹp.
Có màu vàng thẫm của lúa chiêm, màu đỏ của trái chín với vị ngọt say người:
“Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”.
Top 7 bài Cảm nhận văn mẫu về bài thơ Khi con tu hú tuyển chọn
Có màu “vàng” của bắp, màu “đào” của nắng hạ:
“Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”.
Có màu “xanh” của bầu trời trên đồng quê. Cánh đồng thì rộng, mây trời thì cao.
Các tính từ chỉ màu sắc, tính từ chỉ tính chất: “Xanh, vàng, đào, ngọt, rộng, cao”, được phối hợp hài hòa, gợi tả màu sắc và hương vị quê nhà. Những âm thanh nghe thấy, những hình ảnh tưởng tượng thể hiện một tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương, nỗi nhớ da diết triền miên suốt đêm ngày không bao giờ nguôi. Nỗi nhớ ấy đã phản ánh khát vọng tự do bùng lên như ngọn lửa cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trong đọa đầy. Trong một bài thơ khác của phần “Xiềng xích” Tố Hữu đã nói lên tâm trạng mình khao khát tự do, luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ánh sáng, hướng vẻ cuộc sống bên ngoài:
“Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều,
Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về”
Bài thơ “Khi con tu hú” thật đáng nhớ. Bốn câu thơ, đã bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ. Đầy bực bội và sục sôi! Đầy căm thù, uất hận:
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao, chết uất thôi”
“Phòng” là phòng giam, là nhà đá, là nơi biệt giam những người con ưu tú của dân tộc. Lòng căm thù được thể hiện bằng ước muốn và hành động quyết liệt: “Mà muốn đạp tan phòng hè ôi !”.”Phòng” ở đây còn tượng trưng cho chế độ thực dân với chính sách cai trị dã man đang đầy đọa nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ.
“Đạp tan phòng…” là đạp tan chế độ thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do. Câu cảm thán: “Ngột làm sao! Chết uất thôi !”là tiếng than, là thái độ căm giận sục sôi, quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Câu thơ Tố Hữu là sự kế thừa những bài ca yêu nước của ông cha ta những năm đầu thế kỉ XX:
“Nghĩ lắm lúc bầm gan tím ruột
Vạch trời: kêu mà tuốt gươm ra”
Khép lại bài thơ là tiếng kêu của chim tu hú. Âm thanh ấy góp phần đặc tả tâm trạng người chiến sĩ cách mạng. Tiếng chim gọi bầy… tiếng chim báo mùa gặt, gợi nhớ hương vị và cảnh sắc đồng quê. Tiếng chim khắc khoải giục giã căm hờn, nung nấu tinh thần bất khuất đấu tranh.
Có thể nói chất trữ tình tráng ca được diễn đạt một cách đặc sắc để nói tình yêu thuơng và lòng căm giận của nhà thơ trong cảnh tù đày. Cái hay của bài thơ là lấy ngoại cảnh để diễn đạt tâm trạng. Tiếng kêu của chim tu hú như một ám ảnh. Nói rằng bài thơ để ta nhớ là vì thế. Ta nhớ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có một đầu óc lạnh và một trái tim nóng đã sống và chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
Đọc bài thơ đầy tâm huyết của Tố Hữu, là cảm nhận một phần nào tinh thần gang thép của những chiến sĩ cách mạng. Sống vì tự do và sẵn sàng chết vì tự do. Máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ Tổ quốc thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của những chiến sĩ cộng sản trong các nhà tù đế quốc đã chuẩn bị cho nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn các chiến sĩ cách mạng.
Thật vậy, bài thơ “Khi con tu hú” gợi nhớ trong lòng ta:
“Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn”
———————HẾT———————
Chuẩn bị cho tiết học sắp tới, các em có thể tham khảo bài Soạn bài Tức cảnh Pác Pó của Hồ Chí Minh tại TH Văn Thủy.