Lớp 11

Bình giảng bài thơ Từ ấy

Đề bài: Bình giảng bài thơ Từ ấy

binh giang bai tho tu ay

3 bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Từ ấy

Bài mẫu số 1: Bình giảng bài thơ Từ ấy

Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn độc bởi chất men say của lí tưởng cao cả của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muốn hoà nhập và cống hiến hết mình áo cuộc đời.

Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là khi đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu liên đã tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:

Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi

Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ – mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:

Từ ấy trong tôi bừnq nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và sau Từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con nsười. Trước Từ ấy, cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường:

Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)

Đó không phải là tâm trạng của riêng minh nhà thơ mà là chúng cho cả một hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chỉ lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hoá, lay động vừa thức tình không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con người của nhà thơ. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Niềm vui sướng thật sự đang trào khi tâm hồn nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Hình ảnh so sánh hồn tôi – vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín nhà thơ được phơi trải ra thật sông động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, am thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có mùi thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc đẻ nuôi dưỡng sức sống của tâm hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất . Bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.

1 binh giang bai tho tu ay

Những bài Bình giảng bài thơ Từ ấy hay nhất

Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vườn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:

Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.

Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần đi, người chiến sĩ cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khái vọng ấy:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Con người cá nhân đến đây đang tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn – cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Những ích kì, hẹp hòi ngăn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con đường hoà nhập rộng mở thênh thang. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện. Tôi – nhà thơ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xoá bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tôi trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng. Tình nhân ái làm cho mỗi người hoà vào cuộc đời chung trở thành con người đúng theo nghĩa của nó.

Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng lớn:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.

Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoái cho sự hoà nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây được tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng là em Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy, số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ, ở đó không còn là sự cảm thông mà cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ.

Đến đây phẩm chất của người cách mạng được soi sáng. Tâm hồn, nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng. Không có sự tri nghiệm, người cộng sản – nhà thơ không thể có những đổi thay lớn lao như vây. Từ ấy là bản đàm đạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bừng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối vđi những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

—————–HẾT BÀI 1——————

Bên cạnh Bình giảng bài thơ Từ ấy các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Dàn ý phân tích bài thơ Từ ấy hay phần Giới thiệu một vài nét về Tố Hữu và bài Từ ấy nhằm củng cố kiến thức của mình.

Bài mẫu số 2: Bình giảng bài thơ Từ ấy

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 tại Thừa Thiên – Huế. Ông là nhà thơ lớn của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thơ của Tố Hữu gắn liền với cuộc cách mạng của ông. Mỗi tác phẩm của thi sĩ là một chặng đường lịch sử, là một chiến công của nhâu dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch: Từ ấy (1937 – 1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977)…Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.

Từ ấy là lúc, là khi nhà thờ được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỉ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tường cách mạng mà sau này ông nói rõ trong một bài thơ Con lớn lên con đi tìm Cách mạng – Anh Lưu, Anh Diểu dạy con đi – Mẹ không còn nữa, con còn Đảng- Dìu dắt khi con chửa biết gì (Quê mẹ).

Mặt trời chán lí là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã chói qua tim đem lại ánh sáng cuộc đời như bừng lên trong nắng hạ – Một chách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân li chói qua tim

Lí tưởng cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi ki diệu mà lí tưởng cách mạng đem lại:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn hoa xuân đẹp ngào ngạt, hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ (mặt trời chân lí), hình ảnh so sánh (vườn hoa lá) tác giả lựa chọn, sứ dụng từ ngữ chính xác, hình tượng và gợi cảm: bừng, chói, đậm, rộn – để diễn tả thật hay niềm say mê lí tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (Agagông – Pháp)

binh giang bai tho tu ay 1

Hướng dẫn bình giảng bài thơ Từ ấy

Hai khổ thơ thứ 2 và thứ 3 nói lên tình yêu thương giai cấp của người chiến sĩ cách mạng. Dưới ánh sáng của lí tưởng Cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân cùng khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tơi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Các động từ – vị ngữ như: buộc, trang trải, gần gũi diễn tả tình cảm gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng, với quần chúng lao khổ. Các từ ngữ: mọi người – trăm nơi, bao hồn khổ chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng khối đời, khối công – nông liên minh ngày thêm mạnh, thêm gần gũi chặt chẽ. Ba chữ tôi xuất hiện trong khổ thơ thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng.

Khổ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ con, em, anh xuất hiện liên tiếp, giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha: là con…là em…là anh. Các số từ vạn”(vạn nhà), vạn (vạn kiếp phôi pha), vạn (vạn đầu em nhỏ..)- cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên chiến đấu cho tự do và hạnh phúc. Tố Hữu đã có một cách nói sôi nổi, mới mẻ tinh cảm cách mạng, tình yêu giai cấp.

Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…

Từ ấy mang hồn thơ trẻ trung, sôi nổi, nồng nàn, say mê vá tràn đầy yêu thương. Say mẽ lí tưởng, yêu thương giai cấp đã tạo nên tình cảm lớn trong bài

thơ Từ ấy. Hình tượng đẹp và mới mẻ, chất tữ tình chính trị đã làm nên hương sắc bài thơ. Sáu mươi năm đã qua mà câu thơ Mặt trời chân lí choí qua tim vẫn còn mới mẻ. Tố Hữu là nhà thơ viết được những vần thơ hay nhất, đẹp nhất ca ngợi lí tưởng cách mạng và ca ngợi Đảng.

Bài mẫu số 3: Bình giảng bài thơ Từ ấy

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.

Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim

Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.

Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.

binh giang bai tho tu ay 2

Bài Bình giảng bài thơ Từ ấy đặc sắc, tuyển chọn

Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ.

Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.

Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng iiêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Đê hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá ) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mạng”. Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi cá nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.

Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.

Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)

Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

——————HẾT———————-

Tìm hiểu chi tiết nội dung phần Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên qua ngòi bút Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ để học tốt môn Ngữ Văn 11 hơn.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button