Lớp 9

Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đề bài: Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

phan tich 8 cau tho giua doan trich kieu o lau ngung bich

Phân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Dàn ýPhân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

1. Mở bài:

– Nguyễn Du là một danh nhân văn hoá, đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
– “Truyện Kiều” là tác phẩm nổi tiếng của ông, có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật.
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc biệt là 8 câu thơ giữa khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều.

2. Thân bài:

a. Khái quát về đoạn trích:

– Vị trí: nằm ở phần hai Gia biến và lưu lạc.

– Nội dung:
+ Sau khi Kiều bán mình chuộc cha thì bị lừa bán vào lầu xanh.
+ Nàng tự vẫn nhưng không thành.
+ Tú Bà hứa khi nàng bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế, rồi giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích.
+ Giữa khung cảnh vắng lặng, cô quạnh của lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ đến Kim Trọng, cha mẹ rồi tự thấy xót thương cho số phận mình.

b. Phân tích 8 câu giữa:

* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu):

– Kiều nhớ về những kỉ niệm hạnh phúc của mình và Kim Trọng.
+ Chữ “tưởng” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự hồi tưởng lại những kí ức của Kiều.
+ Ánh trăng vằng vặc trên đầu nhắc nàng nhớ về lời thề nguyền cùng chén rượu thề dưới trăng: “Vầng trăng vằng vặc trên trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
+ Nàng càng đau đớn hơn khi nghĩ về Kim Trọng ở Liêu Dương đang mong ngóng tin của nàng trong vô vọng “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

– Càng nhớ tình lang, nàng càng xót xa cho thân phận mình “Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
+ “Tấm son”: tấm lòng thuỷ chung của Kiều với Kim Trọng sẽ không bao giờ phai.
+ Giữa lúc cô đơn, lạc lõng nhất, Kiều vẫn hướng về Kim Trọng với một lòng thuỷ chung.

* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu sau):

– Chữ “xót” đặt ở đầu câu thơ: cho thấy sự xót xa khi nghĩ tới cha mẹ ở quê nhà.
– Nàng thương xót cha mẹ già yếu ngày ngày “tựa cửa” mong tin con.
– Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển tích “sân Lai gốc tử”: chỉ sự xót xa của Kiều khi không được kề bên chăm sóc cha mẹ già.
– Cụm từ “cách mấy nắng mưa”: chỉ thời gian qua nhanh, cảnh vật biến đổi, Kiều đau đáu nỗi nhớ mẹ cha, day dứt khi phụ công sinh thành.

* Nỗi nhớ người yêu đặt trước nỗi nhớ cha mẹ vì:

– Kiều đã bán mình cứu cha và em: coi như đã báo đáp một phần ơn nghĩa sinh thành với cha mẹ.
– Đối với Kim Trọng: Chàng chưa hề biết tin Kiều gặp gia biến, vẫn đang mong ngóng tin của nàng. Nàng đã phụ tình với chàng nên nỗi nhớ chàng trước cha mẹ cũng là hợp tình hợp lý.

c. Đặc sắc nghệ thuật:

– Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc.
– Sử dụng các thành ngữ, điển tích điển cố chính xác và tinh tế.

3. Kết bài:

– Tám câu giữa của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khắc hoạ nỗi nhớ người yêu, cha mẹ của Kiều.
– Ca ngợi phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến.

II. Bài văn mẫuPhân tích 8 câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)

Nguyễn Du là danh nhân văn hoá của thế giới đồng thời ông cũng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng nổi bật nhất phải kể tới kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn rất thành công về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và điển hình là tám câu thơ giữa đã khắc hoạ rất chân thực, rất xúc động nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Thuý Kiều.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi Kiều bán mình cứu cha và em trai, nàng những tường mình chỉ bị “bán” để làm vợ lẽ cho người, không ngờ lại bị lừa vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Tủi nhục, uất ức, Kiều quyết định tự vẫn nhưng lại được cứu sống. Tú Bà vờ hứa với Kiều đợi nàng hồi phục sẽ đem gả vào nơi tử tế rồi đem giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Ở một ngôi lầu mà bốn bề chỉ thấy vắng lặng, phía đông trông ra biển, phía bắc nhìn lên kinh kì, phía nam ngó ra Kim Lăng, phía tây lại thấy dãy Kỳ Sơn, Kiều vô cùng buồn bã. Nàng nhớ lại những kỉ niệm khi còn ở quê nhà, nhớ lại những kỉ niệm cùng chàng Kim Trọng và xót thương cho số phận long đong của mình.

Với tám câu giữa trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta có thể thấy được nỗi nhớ thương người yêu cùng nỗi nhớ cha mẹ của Kiều ngập tràn trong từng lời thơ. Nàng nhớ đến Kim Trọng – mối tình đầu sâu đậm đầy luyến tiếc của mình:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

Chữ “tưởng” mở đầu cho dòng thơ là dòng hồi tưởng, là những hồi ức của Kiều về Kim Trọng. Nhớ về mối tình đầu của mình, Kiều nhớ lại những lời thề son sắt của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc, rằng:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”.

Dưới ánh trăng vĩnh cửu đó, Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau nâng “chén đồng” – chén rượu thề nguyền cùng đồng lòng, đồng dạ. Vầng trăng kia giờ đây vẫn sáng tròn, vẫn vẹn nguyên như thế, vậy mà tình duyên của hai người lại đột ngột bị chia cắt trong đau đớn. Câu thơ nhịp nhàng như lời kể của một trái tim yêu đang đau đớn khôn cùng khi nhớ về những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ. Và khi nhớ về Kim Trọng, Kiều càng đau đớn hơn khi hình dung ở Liêu Dương xa xôi, Kim Trọng vẫn chưa hề hay tin nàng đã phải “bán” mình chuộc cha và vẫn một lòng hướng về Kiều, đợi chờ từng chút tin tức của nàng một cách vô ích: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

Nhớ tình lang của mình bao nhiêu, hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp đẽ bao nhiêu thì Kiều lại càng xót xa cho phận mình bấy nhiêu:

“Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Một mình bơ vơ, lạc lõng giữa chốn xa lạ, nàng thương cho thân phận mình và lại càng tiếc thương cho mối tình đầu ngây thơ đẹp đẽ. Thế nhưng dù rằng đã đi xa, đã không còn vẹn nguyên là một thiếu nữ ngày nào, nhưng “tấm son” – tấm lòng thuỷ chung của nàng với Kim Trọng sẽ chẳng bao giờ phai nhạt. Giữa lúc cô đơn, lạc lõng, bị giam cầm, thế nhưng Kiều vẫn nhớ về Kim Trọng với một tấm lòng thuỷ chung son sắt.

Nhớ người yêu là vậy, nhưng trong tâm can Kiều còn thổn thức cả nỗi nhớ thương về cha mẹ của mình. Nếu như khi nhắc về nỗi nhớ Kim Trọng, Kiều trong niềm hồi “tưởng” thì nhắc tới cha mẹ, nàng lại cảm thấy “xót” xa vô cùng:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?”

Một mình giữa chốn xa lạ, thế nhưng Kiều lại xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ của mình, đã già yếu vậy mà ngày ngày vẫn “tựa cửa” mong ngóng tin tức con. Là phận con, Kiều càng đau xót hơn khi không được tự mình chăm lo cho cha mẹ lúc về già. Câu thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cùng điển tích “sân Lai gốc tử” đã nói lên nỗi lòng của một người con hiếu thảo đang đau đớn vì không được kề bên chăm sóc cha mẹ già. Nhớ cha mẹ, tưởng tượng thấy quê nhà đã thay đổi nhiều mà cha mẹ lại càng ngày càng già yếu, vậy mà nàng lại chẳng thể sớm hôm chăm lo, điều đó mới thật đau xót làm sao! Cụm từ “cách mấy nắng mưa” là một cụm từ chỉ thời gian dài xa cách, đã trải qua bao mùa nắng mưa, nhưng đó cũng là cách nói chỉ sự tàn phá của thiên nhiên, thời gian đối với con người và cảnh vật. Nhớ cha mẹ, nhớ về công lao dưỡng dục sinh thành, Kiều lại càng đau đáu niềm ân hận, day dứt khi đã phụ công của cha mẹ. Nỗi nhớ thương, tâm tình ấy gửi vào cả không gian và thời gian khiến ta cảm thấy nó thật sâu sắc, chân thành vô cùng!

Đến đây có lẽ sẽ nhiều người hỏi, tại sao Kiều nhớ thương cha mẹ nhiều như vậy nhưng lại nhắc nhớ về người yêu trước mà không phải mẹ cha của mình? Lí giải điều này có lẽ là vì khi Kiều “bán mình” chuộc cha, nàng đã tạm yên lòng với chữ hiếu, nàng đã phần nào đền đáp được công ơn cha mẹ sinh thành. Thế nhưng với Kim Trọng, khi nàng rời đi, chàng vẫn chẳng hề hay biết, vẫn một lòng giữ gìn lời thề và kì vọng vào Kiều. Có thể nói, Kiều nghĩ rằng mình đã phụ chàng nên nàng mới day dứt nỗi đau ấy mà nhớ tới chàng trước tiên. Đây là tâm trạng hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí của con người.

Ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí của Thuý Kiều vô cùng chân thực và chính xác. Chỉ với tám câu thơ, nhưng ông đã làm nổi bật nên tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích. Dù ở hoàn cảnh cô đơn, lạc lõng, mịt mù về tương lai thế nhưng Kiều vẫn là một người con hiếu thảo, một người tình hết mực thuỷ chung, son sắt. Trong đoạn thơ này, Nguyễn Du cũng kết hợp sử dụng các thành ngữ, các điển tích điển cố, các từ ngữ vô cùng chính xác để miêu tả tâm trạng của Kiều. Ông quả là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ miêu tả.

Qua tám câu thơ giữa đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã khắc hoạ hết sức thành công nỗi nhớ thương người yêu, nhớ thương cha mẹ của nàng Kiều. Qua đó, ta thấy được Kiều không chỉ là một người con gái tài sắc vẹn toàn mà còn rất hiếu thảo và vô cùng thuỷ chung. Đoạn thơ cũng đã giúp Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của những người phụ nữ trong xã hội xưa.

—————-HẾT—————–

Kiều ở lầu Ngưng Bích không chỉ cho ta thấy được tấm lòng thuỷ chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của nàng Kiều xinh đẹp, mà còn cho ta thấy được nỗi xót xa mình tự thương mình của nàng. Thông qua các bài viết: Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích, Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, Phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, Phân tích tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh: Buồn trông các em sẽ hiểu rõ hơn những nỗi niềm thương thân này của Kiều.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button