Đề bài: Phân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Phân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
I. Dàn ýPhân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Mở bài
Giới thiệu Hàn Mặc Tử, Đây thôn Vĩ Dạ và khổ thơ cần phân tích.
2. Thân bài
a. Hai câu thơ đầu: khát khao hướng tới thế giới bên ngoài, hơi ấm tình người từ mộng cảnh.
– Hình tượng thơ khá “dị” và khó hiểu: Một người lữ khách trong chốn sương khói mịt mù, thấp thoáng với dáng áo trắng hư hư thực thực.
– “Mơ khách đường xa khách đường xa”, cõi đời đã hiện lên một cách rõ ràng thông qua hình bóng một giai nhân mà tác giả trực tiếp xưng “em” ở câu thơ tiếp.
+ Cụm từ “khách đường xa”: Đem đến cảm giác xa lạ, đặc biệt là nó được lặp lại đến hai lần trong một câu thơ để diễn tả cái khoảng cách, âm hưởng xa dần của vị “khách”, của bóng giai nhân trong tâm tưởng nhà thơ.
+ Cõi đời trong thơ của Hàn Mặc Tử lại cũng không phải ở cõi thực mà nó nằm trong cõi “mơ”, giấc mơ tan thì người cũng mất.
=> Hình tượng thơ lạ lùng: Hình tượng con người xuất hiện như ảo ảnh, vừa xa lạ, vừa vận động xa dần, lại vừa không thể nắm bắt được, rất vô định và mênh mang.
– “Áo em trắng quá nhìn không ra”:
+ Người thi sĩ tài hoa, bạc mệnh ấy đã chới với, cố gắng níu kéo lại cái cõi đời, cái hơi ấm tình người dẫu chỉ là trong mơ bằng mọi nỗ lực, mọi cố gắng. Thế nhưng rốt cuộc, người nghệ sĩ dường như đuổi không kịp, với không tới, ánh mắt người cũng nhìn không thấu.
+ Hai từ “trắng quá” gợi tả sự tột cùng của sắc trắng, nó đã vượt qua khỏi tầm nhận biết của thị giác, hình bóng người giai nhân bây giờ đã mất hết đường nét, chỉ để lại một khoảng trắng vô định và hẫng hụt trong lòng thi nhân, chính thức đánh dấu sự bất lực và tuyệt vọng của tác giả trong quá trình níu kéo cõi đời, hơi ấm tình người.
b. Hai câu cuối: Tác giả quay về thế giới bên trong lạnh lẽo, vô định và cô đơn:
– Thế giới ấy hiện lên bằng câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, hình tượng thơ vô cùng siêu thực tượng trưng. Đó là một thế giới mang sự lạnh lẽo, mịt mờ của khói sương, thiếu vắng hình bóng, hơi ấm của con người, là nỗi đau đớn nhất của Hàn Mặc Tử.
– Chỉ có duy nhất một sợi dây vô hình liên hệ giữa hai thế giới khác biệt ấy là tình cảm tha thiết, sâu nặng của người thi sĩ với cuộc đời, với thiên nhiên ngoài kia vẫn luôn đầy ắp trong tâm tưởng, trong những vần thơ lúc trong trẻo, thanh khiết lúc rớm máu đau thương.
– “Ai biết tình ai có đậm đà”:
+ Băn khoăn về tình cảm của người ngoài kia, của giai nhân.
+ Băn khoăn không biết rằng liệu giai nhân, liệu Kim Cúc có thấu hiểu cho cái nỗi lòng tha thiết đến khốn khổ của mình dành cho nàng hay không.
=> Thể hiện ý thức vô cùng sâu sắc về sự manh mang của sợi dây giao nối tình cảm giữa hai thế giới này của Hàn Mặc Tử.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
II. Bài văn mẫuPhân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
“Mai sau, những cái tầm thường, mực thước sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử” đó chính là những lời tâm huyết mà Chế Lan Viên đã nhận định về Hàn Mặc Tử một thi sĩ tài hoa nhưng số mệnh quá ngắn ngủi, đau thương. Có thể nói rằng sự xuất hiện của ông đã khiến nền thơ Mới những năm 1932-1941 có nhiều điểm nhấn mới mẻ, một phong cách tượng trưng siêu thực đặc trưng của phương Tây dần len lỏi vào nền thơ ca vốn quen lối mực thước, lễ giáo của Việt Nam ta. Để tìm đến với những gì “điên”, cái tôi cá nhân mạnh mẽ, và những khao khát sâu thẳm bên trong con người bao gồm nhục cảm và thân xác, những đề tài vốn được coi là hết sức “nhạy cảm” buổi đương thời. Hồn thơ Hàn Mặc Tử mang đủ trong mình những khuynh hướng trữ tình lãng mạn của thơ Mới như Xuân Diệu, Huy Cận cùng tha thiết, cũng chứa đựng những vẻ đẹp thanh khiết thiêng liêng, trong ngần mà Nguyễn Bính, hay Thế Lữ hằng tôn thờ, chỉ khác rằng thơ của Hàn Mặc Tử còn chứa đựng cả những gì rùng rợn, kinh dị và ghê gớm nhất, để mang đến một chất thơ khiến người đời không ngừng bối rối và ngẫm ngợi. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ được xem là nổi bật và thành công nhất của Hàn Mặc Tử với những vần thơ rất đẹp, rất trong, người thi sĩ cận kề cái chết, trong tuyệt vọng và bế tắc vẫn yêu đời yêu sống một cách tha thiết đến xót xa. Người vui trong khổ thơ đầu tiên với cảnh bình minh thôn Vĩ, gượng vui trong khổ thơ thứ hai với đêm trăng bên dòng Hương giang. Và cuối cùng trong khổ thơ thứ ba, người ta lại thấy thấp thoáng đâu đó cái hồn thơ điên cuồng, kỳ dị của Hàn Mặc Tử, đau xót, mênh mang, vô định.
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Nếu trong hai khổ thơ đầu tiên, thông qua ánh nhìn trìu mến và yêu thương đối với xứ Huế tươi đẹp, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ khát khao mãnh liệt được hòa nhập vào cuộc sống bình thường, được thoát ra khỏi lãnh cung chết chóc, cô đơn của cuộc đời mình để tận hưởng thiên nhiên tươi đẹp trong trẻo và tự do. Thì đến khổ thơ thứ ba tác giả lại không còn đơn thuần khao khát vẻ đẹp của thiên nhiên nữa mà chuyển hướng sang khao khát được đón nhận sự nồng ấm của tình người, tình đời. Điều đó bộc lộ trong hình tượng thơ khá “dị” và khó hiểu: Một người lữ khách trong chốn sương khói mịt mù, thấp thoáng với dáng áo trắng hư hư thực thực, có lẽ là bóng của một giai nhân trong mộng Hàn Mặc Tử như Hoàng Thị Kim Cúc chăng? Như vậy có thể thấy rằng câu thơ đầu tiên “Mơ khách đường xa khách đường xa”, cõi đời đã hiện lên một cách rõ ràng thông qua hình bóng một giai nhân mà tác giả trực tiếp xưng “em” ở câu thơ tiếp. Tuy nhiên rằng “khách đường xa” ở trong thơ Hàn Mặc Tử lại đem đến cảm giác xa lạ, đặc biệt là nó được lặp lại đến hai lần trong một câu thơ để diễn tả cái khoảng cách, âm hưởng xa dần của vị “khách”, của bóng giai nhân trong tâm tưởng nhà thơ. Cách viết này của Hàn Mặc Tử có đôi phần giống với Nguyễn Bính trong câu thơ “Anh đi đấy, anh đi đâu/ Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”, gợi tả sự xa dần, mất dần của sự vật. Thì hình tượng “khách đường xa” cũng vậy, nó được lặp lại hai lần với nhịp thơ tha thiết, gợi tả cảm giác xa dần, xa dần vượt ra khỏi tầm mắt và tầm tay của thi nhân. Đặc biệt nữa vị “khách đường xa” mang đến cõi đời trong thơ của Hàn Mặc Tử lại cũng không phải ở cõi thực mà nó nằm trong cõi “mơ”, giấc mơ tan thì người cũng mất. Chưa có lúc nào lại có một hình tượng thơ lạ lùng đến thế, hình tượng con người xuất hiện như ảo ảnh, vừa xa lạ, vừa vận động xa dần, lại vừa không thể nắm bắt được, rất vô định và mênh mang. Và Hàn Mặc Tử một con người đang tuyệt vọng và bế tắc trong lãnh cung của cuộc đời, vốn dĩ đã không có gì để dựa dẫm, hy vọng đành tìm đến cõi người ở trong mơ. Người thi sĩ tài hoa, bạc mệnh ấy đã chới với, cố gắng níu kéo lại cái cõi đời, cái hơi ấm tình người dẫu chỉ là trong mơ bằng mọi nỗ lực, mọi cố gắng, người cố nhìn cho rõ cái thân ảnh giai nhân trong mộng, cố sao có thể bắt được chút bóng hình quen thuộc, đó liệu có phải nàng Kim Cúc, hay Mộng Cầm, hay một ai khác, chàng không biết. Thế nhưng rốt cuộc, người nghệ sĩ dường như đuổi không kịp, với không tới, ánh mắt người cũng nhìn không thấu, bởi “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Hai từ “trắng quá” gợi tả sự tột cùng của sắc trắng, nó đã vượt qua khỏi tầm nhận biết của thị giác, hình bóng người giai nhân bây giờ đã mất hết đường nét, chỉ để lại một khoảng trắng vô định và hẫng hụt trong lòng thi nhân, chính thức đánh dấu sự bất lực và tuyệt vọng của tác giả trong quá trình níu kéo cõi đời, hơi ấm tình người.
Khi mọi nỗ lực hướng ra thế giới “ngoài kia” – thế giới của biêng biếc sắc màu, tràn ngập sự sống, của ấm nóng tình người, đều trở nên vô vọng, Hàn Mặc Tử buộc phải quay lại với thế giới trong này của mình, quay lại với lãnh cung cuộc đời, cô đơn, bế tắc, buồn tẻ. Cái thế giới ấy hiện lên bằng câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, hình tượng thơ vô cùng siêu thực tượng trưng. Đó là một thế giới mang sự lạnh lẽo, mịt mờ của khói sương, thiếu vắng hình bóng, hơi ấm của con người, là nỗi đau đớn nhất của Hàn Mặc Tử khi phải chống chọi một mình với bệnh tật, không người sẻ chia, bị cách ly khỏi xã hội và đợi chờ thần chết đến tìm mình trong tuyệt vọng. Bản thân thi sĩ không thể bước ra thế giới ngoài kia và thế giới ngoài kia cũng chẳng thể tìm đến với lãnh cung của người thi sĩ. Chỉ có duy nhất một sợi dây vô hình liên hệ giữa hai thế giới khác biệt ấy là tình cảm tha thiết, sâu nặng của người thi sĩ với cuộc đời, với thiên nhiên ngoài kia vẫn luôn đầy ắp trong tâm tưởng, trong những vần thơ lúc trong trẻo, thanh khiết lúc rớm máu đau thương. Tuy nhiên Hàn Mặc Tử ôm chữ “tình” như lá bùa hộ mệnh ấy lại có những lúc hoài nghi “ai biết tình ai có đậm đà”, người sợ chỉ có mình đơn phương, ôm những tình cảm sâu đậm, còn chẳng hay người ngoài kia có đối với mình như thế hay không, hoặc là nỗi băn khoăn không biết rằng liệu giai nhân, liệu Kim Cúc có thấu hiểu cho cái nỗi lòng tha thiết đến khốn khổ của mình dành cho nàng hay không. Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, thì cũng thể hiện rõ một điều rằng Hàn Mặc Tử ý thức vô cùng sâu sắc về sự mong manh của sợi dây giao nối tình cảm giữa hai thế giới này, người sợ một ngày nào đó nó sẽ đứt mất, và người vĩnh viễn phải giam mình trong cái lãnh cung vô sắc, vô vị và lạnh lẽo này.
Có thể thấy khổ thơ thứ 3 trong Đây thôn Vĩ Dạ chính là điểm nhấn đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử, là sự phân chia giữa thế giới bên ngoài tươi đẹp, ấm nóng tình người và thế giới bên trong vô định, lạnh lẽo. Từ đó bộc lộ ra những khát khao sống, khát khao được hòa nhập và với cuộc sống bình thường một cách mãnh liệt của nhà thơ, dẫu biết rằng tất cả chỉ là vô vọng và đau khổ. Hình tượng thơ kỳ dị, mang đậm phong cách siêu thực tượng trưng đã mang đến cho người đọc nhiều tầng cảm xúc, kích thích sự tư duy, suy tưởng của độc giả nhiều thế hệ, để lại những ấn tượng sâu sắc về một hồn thơ kỳ dị, điên cuồng và đau thương nhất trong nền thơ Mới của dân tộc.
———————-HẾT———————
Khổ 3 của bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đã tập trung thể hiện tâm trạng xót xa, đau đớn của nhân vật trữ tình, cùng vớiPhân tích khổ 3 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, các em có thể tìm hiểu thêm về bức tranh thôn Vĩ đẹp đẽ trong trẻo qua bài:Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.