Lớp 9

Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác

Đề bài: Em hãy trình bày cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

cam nhan ve bai tho vieng lang bac

Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác

I. Dàn ý Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác

1. Mở bài

Những bài thơ, lời hát ra đời viết về nỗi thương nhớ, xót xa Người gây niềm xúc động mãnh liệt. Nổi bật hơn cả có lẽ là thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.

2. Thân bài

a. Khổ thơ 1:
– Lời xưng hô thân thiết ” bác” -con : tình cảm gần gũi, như ruột thịt
– Hình ảnh hàng tre xanh tượng trưng cho sự kiên cường, anh dũng của dân tộc, cho bao phẩm chất cao quý và tốt đẹp của con người Việt Nam

b. Khổ thơ 2:
– Mặt trời là vẻ đẹp của thiên nhiên, mặt trời cũng chính là Bác Hồ- vẻ đẹp của dân tộc
– Dòng người tới viếng, kết thành vòng hoa bảy mươi chín mùa xuân dâng lên Người

c. Khổ thơ 3:
– Niềm nhớ thương vô hạn Bác khi vào trong lăng, nỗi xúc động cuộn trào
– Đau đớn, xót xa khi phải chấp nhận rằng Bác đã ra đi mãi mãi

d. Khổ cuối
– Niềm tiếc nuối khi phải xa Người
– Những ước mơ nhỏ nhoi được cùng Người, bên Người qua bao năm tháng – Lời ước nguyện của cả dân tộc

3. Kết bài

Đọc bài thơ em càng trân trọng biết bao công lao của Bác, trân quý biết bao nhân cách của Người.

II. Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác

1. Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác, mẫu số 1 (Chuẩn):

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân. Để rồi 7 năm sau, tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương vẫn bồi hồi thương nhớ Người và sáng tác lên bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn sâu sắc của tác giả nói riêng, của toàn thể đồng bào Việt nói chung với vị lãnh tụ của dân tộc.

“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Viễn Phương. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1976, gây ấn tượng bởi những cảm xúc chân thành và niềm thành kính, biết ơn của nhà thơ, của đồng bào miền Nam và nhân dân cả nước dành cho Bác.

Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm kể từ ngày Người ra đi:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương xưng hô “con -Bác” gợi cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một người con xa nhà, lâu ngày mới có dịp trở về thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nói tránh cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể nguôi ngoai của cả dân tộc.

Hình ảnh “hàng tre bát ngát” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa sa” muôn vàn gian khổ để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người. Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình.

1 cam nhan ve bai tho vieng lang bac

Những bàiCảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất

Tác giả bước theo dòng người chầm chậm vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.

Đến đây, nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh thơ vô cùng độc đáo. Hình ảnh “Mặt trời đi qua trên lăng” miêu tả mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ, ngày ngày tỏa ánh sáng đem đến sự sống cho vạn vật. Trong lăng Bác – nơi Bác yên nghỉ lại có một “mặt trời” khác “rất đỏ”. “mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu, thể hiện niềm biết ơn thành kính với vị lãnh tụ như vầng thái dương soi sáng đường đi, chở che cho cả dân tộc.

Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật thời gian bất biến của tự nhiên lẫn con người, diễn tả hiện thực dòng người nối dài vô tận, lặng lẽ trang nghiêm mỗi ngày tiến vào lăng Bác để bày tỏ tình cảm với người cha già muôn vàn kính yêu. Họ là đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của đất nước và con người Việt Nam kính dâng lên Bác.

Ngoài ra, tác giả cũng sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” diễn tả bảy mươi chín năm tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để đem đến cho dân tộc ta một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh hằng.

Để rồi khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, lay động trái tim của hàng triệu người:

Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.

Viễn Phương vẫn tiếp tục dùng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn cố gắng giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh chân thực đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thực thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng. Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim”.

Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không con nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…

Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiệ ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.

Đặc biệt, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son vô hạn với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam, của cả dân tộc.

Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc biệt, sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ…Từ đó thể hiện cảm xúc đau đớn xót thương, nỗi nhớ và tình cảm thiết tha, sự biết ơn thành kính với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ dễ dàng khơi gợi cảm xúc trong lòng độc giả, là nén tâm hương kính dâng lên Người.

Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.

2. Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác, mẫu số 2 (Chuẩn):

Bác Hồ-người anh hùng, một người con vĩ đại của dân tộc. Cả cuộc đời người đã cống hiến hết sức mình vì nhân dân,vì đất nước,….Để rồi khi người ra đi,đã để lại cho nhân dân sự tiếc thương vô hạn. Bác ra đi là điều mất mát lớn nhất của dân tộc, là nỗi đau của hàng vạn trái tim Việt Nam. Những bài thơ, lời hát ra đời viết về nỗi thương nhớ, xót xa Người gây niềm xúc động mãnh liệt. Nổi bật hơn cả có lẽ là thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. Nhà thơ đã bày tỏ sự kính trọng, biết ơn và nỗi niềm thương tiếc, đau xót qua từng dòng thơ.

Mở đầu bài thơ là lời thông báo của nhà thơ:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Viễn Phương đã xưng “con” đầy thân thương mà gần gũi, tha thiết. Nhà thơ đã dùng từ “thăm” để giảm đi sự đau buồn nhưng ta vẫn thấy sự đau buồn của cảnh sinh li tử biệt. Phải yêu thương, kính trọng biết bao mới xưng hô thân thiết như thế. Qua đó ta thấy được sự gần gũi, tình cảm của Bác với nhân dân như ruột thịt.

“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”

Màu tre xanh là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, trên xanh dũng cảm, kiên cường, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn vươn mình cứng cỏi. Hình ảnh “bão táp mưa sa” vẫn thẳng hàng” đã cho ta thấy được sự kiên cường, anh dũng, thanh cao của chính con người Việt Nam trước khó khăn, giông bão. Quanh lăng Bác là những hàng tre “xanh xanh”,”bát ngát” như những đứa con của dân tộc Việt Nam đang bảo vệ, canh giữ cho Người. Dù là lúc sống hay khi đã mất thì những người con Việt Nam vẫn luôn ở bên Người.

Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình trước đoàn người vào lăng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân….”

cam nhan ve bai tho vieng lang bac 1

Bài Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác có dàn ý chi tiết

Ở hai câu thơ đầu có hai hình ảnh của mặt trời. Mặt trời thứ nhất là mặt trời tả thực

trời của thiên nhiên. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ. Mặt trời rất đỏ tượng trưng cho sự sáng chói, sống mãi của Người. Bác là Người đã soi lối, chỉ đường đưa dân tộc đến với độc lập, tự do. Bằng hình ảnh mặt trời ở cả hai câu thơ, tác giả muốn nói:”Bác Hồ là mặt trời đẹp nhất và luôn sống mãi trong tim của người dân Việt Nam”. Qua đó, phải chăng con đường cách mạng của Người như chính ánh mặt trời đẹp đẽ, rực rỡ mang lại cả nguồn sống cho dân tộc. Đồng thời, bày tỏ tấm lòng thành kính, trân trọng của nhà thơ, của nhân dân với sự cao quý của Người. Ngày ngày, luôn có những dòng người lần lượt vào thăm Bác. Hình ảnh dòng người viếng lăng Bác được ví như tràng hoa dâng lên tặng Người, dâng lên Bác tình yêu, sự biết ơn và kính trọng những gì xinh đẹp nhất, tươi tắn nhất. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ đầy đẹp đẽ, Bác đã sống cuộc đời 79 mùa xuân cống hiến và hi sinh hết mình vì dân, vì nước. Một cuộc đời thật đẹp đẽ và ý nghĩa, một cuộc đời vì mọi cuộc đời.

Khi vào trong lăng viếng Bác, cảm xúc của tác giả lên tới cao trào:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh đã giúp giảm đi sự đau thương mất mát của nhân dân cả nước, “Vầng sáng dịu hiền” như chính tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Người, như chính trái tim bao dung, nhân ái của Người. Trong trái tim mỗi người Việt Nam, Bác mãi mãi là “trời xanh”, là nguồn sống, niềm tin bất diệt. Dù biết Bác sẽ mãi sống trong trái tim mỗi người nhưng vẫn mất mát, đau thương trước sự ra đi của Người. Câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim” đã cho ta thấy được tình cảm sâu sắc, đau đớn của tác giả nói riêng và cả dân tộc nói chung.

Nếu như ở cả ba khổ thơ đầu, tác giả cố kìm nén cảm xúc nơi sâu thẳm đáy lòng thì đến với khổ thơ cuối, khi sắp phải chia xa người, lòng lại nặng trĩu, cảm xúc chợt tuôn trào:

“Mai về miền Nam dâng trào nước mắt”

Xa Bác, làm sao không buồn, không luyến tiếc cơ chứ. Vừa mới đến với Bác thôi nhưng vì một lẽ nào đó mà phải chia tay, cảm giác thật bịn rịn khó tả. Tác giả còn bộc bạch niềm mong muốn, khát vọng của mình:

“Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc tới 3 lần vừa thấy được sự gấp gáp, sự khát khao mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ muốn làm con chim nhỏ để cất tiếng hót quanh Bác mỗi ngày, muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, để tô sắc thắm cho nơi đây. Và lời ước nguyện cuối cùng của tác giả:

“Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Mỗi người là một cây tre trung hiếu với Bác, thì cả hàng tre là cả dân tộc trung hiếu với Người. Nguyện trung thành và hiếu kính với Người suốt một đời. Luôn học tập và đi theo con đường lí tưởng cách mạng của Người. Ước nguyện đâu phải chỉ của riêng mình Viễn Phương đâu mà còn là ước nguyện của con dân miền Nam, là ước nguyện của cả dân tộc.

Đọc bài thơ em càng trân trọng biết bao công lao của Bác, trân quý biết bao nhân cách của Người. Và em cũng hiểu được rằng, mỗi tác phẩm văn học thành công không phải được tạo nên từ những lấp lánh, huyền ảo, cao sang của thực tại mà đến từ những điều bình dị, giản đơn nhất. Hơn hết, một tác phẩm thành công phải được xuất phát từ sự chân thành, từ tấm lòng tha thiết của người nghệ sĩ, “Viếng lăng Bác” xứng đáng với thành công ấy.

2. Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác, mẫu số 2:

Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã hiến dâng cả cuộc đời mình vì dân vì nước. Người không một giây, một phút nào ngưng nghĩ về dân tộc, về sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân…Để rồi khi Người ra đi đã để lại một nỗi buồn vô hạn, một tình yêu thương tha thiết của nhân dân cả nước. Để rồi có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn hay về Bác, nổi bật trong đó có lẽ là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Đọc từng dòng thơ ta nghe như sóng trào cảm xúc, lời thơ giản dị mà tình cảm chân thành, rất đỗi đẹp đẽ của nhà thơ nói chung và của miền Nam nói riêng dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.

Sau ngày đất nước hòa bình, Bắc Nam đã sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất, độc lập. Năm 1976, Viễn Phương may mắn được ra viếng thăm lăng Bác, lòng rất đỗi tự hào và vui mừng khôn xiết biết bao:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

Nhà thơ xúc động cất lên tiếng “con” đầy tha thiết và chứa chan niềm yêu thương. Đó là sự kính yêu, hết mực trân trọng, là tấm lòng của một người con gửi đến người cha thân yêu, qua đó cũng nói lên được sự gần gũi của nhân dân với Bác như tình ruột thịt gắn bó keo sơn. Một sớm mai giữa bầu trời thủ đô, đến bên Người, ai cũng mang trong mình những tình cảm thật lớn lao, ai cũng mong được đứng thật lâu trước lăng Chủ tịch để cảm nhận.

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Đó là hàng tre xanh thân thuộc đứng hiên ngang, vững chãi trước bão táp mưa sa cũng chính như những người dân đất Việt, mạnh mẽ, kiên cường, ngay thẳng, kiên trung. Dẫu có mưa bom bão đạn, dẫu có nắng cháy, mưa sa, có thách thức, gian khổ, họ vẫn cần cù, chịu thương, chịu khó. Bao sóng gió, họ vẫn hiên ngang, đứng thẳng, ngẩng cao đầu chân chính bước tới vinh quang của tự do, độc lập. Gặp gỡ những điều bình dị ấy, trong tác giả dâng lên niềm tự hào khôn nguôi về nhân dân nước Việt. Những cây tre xanh tượng trưng cho những người con của dân tộc luôn bên cạnh Bác, song hành cùng Bác dù Bác đã đi xa, chở che, tỏa bóng mát dịu nhẹ xuống nơi Người an nghỉ.

Dường như, tất cả mọi thứ nơi đây đều quá đỗi cao đẹp và thiêng liêng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”…

cam nhan ve bai tho vieng lang bac 2

Bài tham khảo Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác mới nhất

Hai vầng mặt trời sáng ngời bao vẻ đẹp. Mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, sáng soi, mang ánh sáng diệu kì, vô tận. Ánh sáng ấy mang lại bao sự sống cho muôn loài. Ánh “mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ cho ánh mặt trời của dân tộc – Bác Hồ kính yêu. Bác mãi bất tử với non sông, với dân tộc, sự nghiệp cách mạng chói ngời và vẻ vang của người đã soi sáng cho con đường chiến đấu phía trước của dân tộc để đi đến thống nhất ngất hôm nay. Đó còn là ánh mặt trời của tình thương, lòng bác ái mà Bác đã dành trọn cho nhân dân. Và có lẽ vì vậy, mà người người luôn mang trong mình tình cảm, lòng kính yêu đối với Bác. Giây phút lặng lẽ thiêng liêng từng dòng người đến viếng Bác, kết dâng tràng hoa tươi đẹp nhất, những tình cảm thiết tha nhất, nồng hậu nhất kết tinh gửi đến Người. Nhân dân muôn nơi đến viếng thăm, như những tràng hoa tươi đẹp của cuộc đời được nuôi dưỡng dưới ánh mặt trời rực rỡ của Người. Bảy mươi chín mùa xuân ấy là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp của cuộc đời, sống trọn vẹn, công hiến, hi sinh cho non sông, dân tộc .

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”…

Bác nằm an nghỉ một giấc ngủ ngàn thu, ung dung, bình thản giữa vầng trăng dịu nhẹ. Khoảng không gian rất đỗi bình yên và lắng đọng. Vầng trăng như tâm hồn Bác vậy, bao la và đầy cao đẹp. Dẫu biết rằng, Bác cũng như trời xanh kia, luôn tồn tại mãi trong tim mỗi người. Nhưng sự thật khiến trái tim ta vẫn không thể nguôi ngoai nỗi đau khi mất Bác “Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Theo dòng cảm xúc, lời thơ tuôn trào bao xúc động, khiến ta không khỏi nghẹn ngào:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cảm xúc dâng trào mãnh liệt, tác giả vừa tiếc thương vừa lưu luyến khi phải rời xa Người để trở về miền Nam. Khao khát muốn làm đóa hoa để tỏa hương, cây tre kiên trung hay tiếng chim ca hát để được ở bên Người. Tình cảm tuyệt vời đó không chỉ là của riêng nhà thơ mà là tấm lòng yêu kính của những người con miền Nam dành cho Bác.

Cuộc đời Bác sống thanh cao, giản dị, không cầu kì. Có lẽ vì vậy mà những vần thơ Việt về người vẫn luôn bình dị và chân chất như thế. Hình ảnh quen thuộc, gần gũi nhưng bằng những phép ẩn dụ, nhân hóa đặc sắc tác giả đã bày tỏ lòng thành kính tới Bác. Dù chưa được một lần gặp Người, nhưng qua những vần thơ như thế, ta càng thêm kính yêu và tự hào về Người, mãi khắc ghi công ơn biển trời mà Bác đã dành cho dân tộc.

—————-HẾT——————

Viếng Lăng Bác là bài thơ nổi bật của trong ngữ văn lớp 9, bên cạnh bài làm văn Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác, học sinh, giáo viên thường làm các bài văn như, Những nét đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác, Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, hay bài Cảm nhận của em trước lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam qua bài Viếng lăng Bác hay cả phần Soạn bài Viếng lăng Bác.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button