Lớp 11

Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê

Đề bài: Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê

phan tich bai tho khoc duong khue

Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê

I. Dàn ýPhân tích bài thơ Khóc Dương Khuê (Chuẩn)

1. Mở bài

– Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh thời là hai người bạn cực kỳ thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau.
– Khi nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức bàng hoàng và đau buồn. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng thương tiếc, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.

2. Thân bài:

* Sơ lược về Dương Khuê:
– Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, cùng đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm bất định.
– Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.

* Hai câu đầu:
– Sự hoang mang, bàng hoàng của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình…(Còn tiếp)

>> Xem chi tiết Dàn ýPhân tích bài thơ Khóc Dương Khuê tại đây

II. Bài văn mẫuPhân tích bài thơ Khóc Dương Khuê (Chuẩn)

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh thời là hai người bạn cực kỳ thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau, cùng làm quan dưới thời Nguyễn trong buổi đất nước có nhiều biến đổi, khiến các nhà trí thức đương thời có phần bất lực và chán nản, càng khiến hai người có chung niềm tâm sự, họ lại càng trở nên thân thiết hơn cả. Sự gắn bó, tri kỷ ấy quả thực là hiếm có của đời người, chính vì lẽ ấy nên khi nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức bàng hoàng và đau buồn bởi từ nay chẳng còn lấy một người tri âm, tri kỷ cùng ông chia sẻ những nỗi niềm riêng trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng thương tiếc, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.

Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm bất định. Chán nản với cuộc đời quan chức không mấy suôn sẻ ông cáo quan lúc 58 tuổi, lui về vui vầy với rượu, thơ, đàn xướng. Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.

Mở đầu bài thơ là sự hoang mang, bàng hoàng của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình.

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.”

Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng hai từ “Bác Dương” rất đỗi gần gũi, thân thiết, lại cũng thể hiện những tình cảm trân trọng, quý mến vô cùng của những người đồng trang lứa, cách gọi ấy tựa như lúc Dương Khuê vẫn còn sống mà hai người vẫn thường xưng hô với nhau. Cụm từ “Thôi đã thôi rồi”, từ “thôi” đầu thể hiện nỗi nuối tiếc xót xa khi vụt mất một thứ quan trọng nhất cuộc đời của Nguyễn Khuyến, từ “thôi” thứ hai là ngụ ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất bạn ấy là nỗi đau “ngậm ngùi” âm ỉ cháy trong lòng, người ra đi khiến người ở lại phải day dứt, buồn thương vô cùng, nỗi đau ấy không chỉ khu trú trong tâm hồn tác giả mà tựa như nước chảy mây bay, lan tỏa khắp cùng trời cuối đất, rộng lớn vô cùng. Nhịp thơ, giọng điệu ở hai câu đầu nhẹ nhàng, âm thầm như dàn trải, mang đến cảm giác trầm buồn, càng diễn tả sâu sắc nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.

Trong sự mất mát to lớn ấy, Nguyễn Khuyến dần hồi tưởng về khoảng thời gian hai người còn bầu bạn, vui vầy.

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời”

Nhớ làm sao ngày mới quen biết cùng nhau đỗ khoa cử, lại cùng nhau “sớm hôm” bàn luận chuyện đời, mối quan hệ, tình bạn tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là tình cảm kính trọng, quý mến, thấu hiểu lẫn nhau, “kính yêu từ trước đến sau”. Việc được gặp gỡ và kết thành tri kỷ với Dương Khuê, Nguyễn Khuyến rất đỗi coi trọng, ví như “duyên trời” định sẵn, là mối cơ duyên trăm năm có một, đâu phải dễ dàng. Trước nỗi đau xót, nỗi tiếc thương vô hạn, Nguyễn Khuyến lại ngược bước về những năm tháng huy hoàng tuổi trẻ của ông với người bạn quá cố. Còn đâu những năm tháng trẻ khỏe sung sức, hết “chơi nơi dặm khách”, lại vượt núi leo đồi nghe tiếng suối róc rách, rồi những buổi thảnh thơi trên “tầng gác cheo leo” cùng nhau nghe những cô đầu ngân nga câu hát ả đào êm ái. Lại nhớ những ngày thâu đêm suốt sáng, cùng tri kỷ sẻ chia chén rượu quý thơm nồng, cùng nhau làm thơ, lại cùng nhau ngâm thơ, rồi bàn luận qua lại trước sau chau chuốt. Rồi những ngày cùng nhau vùi trong phòng sách nghiên cứu Tam phần ngũ điển để thấu hiểu cái đạo lý của người xưa. Rồi cả quãng đời cùng nhau đỗ khoa cử, cùng nhau đứng ra phụng sự triều đình, cái mũ ô sa trên đầu dẫu có nặng trăm bề, dẫu có rối ren và nhiều cớ sự bất mãn, đôi bạn tri kỷ cũng chỉ biết san sẻ, thấu hiểu, cùng sát cánh vượt qua chứ nào dám than thở trước sau. Biết bao kỷ niệm quá đỗi đẹp đẽ, như mới chỉ ngày hôm qua đây thôi, nhưng nay người đã lại vội về chốn tây thiên cực lạc, Nguyễn Khuyến nghĩ mà thêm bồi hồi, thêm xót xa muôn phần.

Thời trai trẻ, có sức, có lực lại có cả ý chí ngoan cường là thế, buổi về già mọi thứ đã không còn được như trước, nhưng tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn không hề chuyển dời, thậm chí còn vì xa cách mà ngày càng thêm sâu sắc, gắn bó hơn cả.

“Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”

Khi tuổi đã cao, sức đã yếu thì những thú vui tuổi trẻ dần trở thành những thứ xa xỉ, thậm chí vì xa cách mà cả hai người mãi mới có bận gặp nhau một lần, đấy cũng là 3 năm về trước. Tuy nhiên dẫu có xa, dẫu có lâu không gặp thì tình bạn gắn bó keo sơn vẫn mãi ngự trị mãi trong ngực trái của cả hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, chưa một lần nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa “Cầm tay hỏi hết xa gần”, dường như bao chuyện lâu nay không được có người san sẻ đều tuôn ra hết trong lần gặp cuối ấy, được thấy bạn mình vẫn khỏe mạnh, “tinh thần chưa can” là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy rằng dẫu về già, không còn gặp nhau được mấy lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ gìn vẹn nguyên cái tình cảm tri âm ấy, vẫn luôn hằng tưởng nhớ về người bạn tuổi trẻ thường xuyên chia sẻ tâm tình, cùng chung khổ nạn.

Hồi tưởng càng nhiều, ký ức càng tươi đẹp bao nhiêu thì quay trở về với hiện thực tác giả lại càng phải đối mặt với hiện thực phũ phàng và đau xót bấy nhiêu, những mộng tưởng của ngày xưa đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. Nguyễn Khuyến buộc phải đối mặt với hiện thức rằng Dương Khuê đã ra đi mãi mãi, ông đã mất đi người bạn quý giá nhất cả cuộc đời, giờ chỉ còn lại tấm thân già cô đơn giữa thời thế loạn lạc.

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”

Ông không khỏi ngậm ngùi, đau xót một nỗi tiếc thương rằng tại sao Dương Khuê vốn nhỏ tuổi hơn ông, lại bệnh tật cũng sau ông, thế mà chẳng hiểu sao “bác vội về ngay”, tin ấy khiến cho Nguyễn Khuyến bàng hoàng “chân tay rụng rời”, vì không thể tin nổi trước hung tin như sét đánh ngang tai ấy. Giờ đây bạn hiền đã về với miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một thân già với nỗi đau đớn, hụt hẫng và hoang mang vô cùng.

“Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.”

Bạn hiền đã mất, còn lại mình Nguyễn Khuyến với nỗi cô đơn, trống vắng thì thiết tha gì những thú vui từng một thời say đắm, rượu ngon cũng trở nên vô vị, thú vui làm thơ cũng dần chán nản, bởi còn đâu người hợp ý để vui vầy, sẻ chia nữa. Tình cảm thắm thiết tri âm, tri kỷ ấy sánh ngang với điển cố của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn – Từ Trĩ, như Tử Kỳ – Bá Nha, sâu nặng, ân nghĩa vô cùng.

Quay về với thực tại, trước vong linh người bạn hiền quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng đã thoát khỏi cái hồi tưởng xa xăm, trở về với hiện thực đau đớn, xót xa. Nhưng dẫu Dương Khuê có chết đi, thì tình cảm giữa hai người vẫn trường tồn mãi mãi, là thứ trân quý nhất trong cuộc đời mà Nguyễn Khuyến hằng trân trọng.

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!”

Nỗi đau đớn ấy đã không thể chảy thành hàng lệ dài, mà Nguyễn Khuyến giấu nó vào trong góc sâu nhất của trái tim, để tưởng nhớ mãi về một người bạn hiền tri âm tri kỷ. Những câu thơ cuối là lời buông thật nhẹ nhàng, buồn tủi, là sự chấp nhận của tâm hồn thi sĩ trước sự ra đi của bạn mình. Thôi đành hẹn kiếp sau lại được làm tri kỷ, kiếp này duyên trời coi như đã hết.

Khóc Dương Khuê là bài thơ cảm động và sâu sắc của Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ về người bạn quá cố, qua đó thấy được những tình cảm đáng quý, thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời ca ngợi tình bạn thiêng liêng, trăm năm có một của nhà thơ. Bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ êm đềm, chậm rãi, ngôn từ giản dị, tác gỉa tinh tế sử dụng các điển tích điển cố một cách khéo léo đã làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ, diễn tả thành công nỗi buồn của thi nhân đầy xót xa, suy tư và trầm lắng.

——————–HẾT———————

Nhằm hỗ trợ tốt nhất cho các em trong quá trình học và tìm hiểu bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến, bên cạnh bài văn mẫu Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê trên đây, chúng tôi còn giới thiệu đến các em nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác như:Sơ đồ tư duy Khóc Dương Khuê, Cảm nhận bài thơ Khóc Dương Khuê, Soạn bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến.

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.
Back to top button