Giáo Dục

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Đề bài: Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

phan tich hai kho dau bai tho doan thuyen danh ca

Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

I. Dàn ý Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Chuẩn)

1. Mở bài

– Giới thiệu chung về tác giả Huy Cận, tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”.
– Dẫn dắt vào hai khổ thơ đầu bài thơ.

2. Thân bài

a. Khái quát về tác giả, tác phẩm

– Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
– Các tác phẩm của ông trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thường mang âm hưởng sầu não, buồn chán trước thực tại…
– “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, khi ông có một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai, Quảng Ninh.

b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi

– Thời gian: “mặt trời xuống biển”- đêm xuống

– Không gian: Biển cả rộng lớn, bao la:
+ “Mặt trời xuống biển” được ví như “hòn lửa”, một hình ảnh thật độc đáo giữa một khung cảnh rộng lớn.
+ Nhân hoá: “Sóng cài then, đêm sập cửa”: cảnh vật gần gũi.
=> Thiên nhiên vào trạng thái nghỉ ngơi, nhường chỗ cho những hoạt động của con người.

-Từ “lại” gợi ra ấn tượng về sự thường xuyên, liên tục.
– Tâm trạng: háo hức, mong đợi, gửi gắm vào câu hát.

c. Bài hát gọi cá

– Tiếng hát hòa cùng với công việc của người dân chài miền biển :
– Lời hát gửi gắm niềm mong mỏi vào một chuyến đi đầy tôm cá mà còn ngợi ca sự giàu có, phong phú của mẹ thiên nhiên “Cá bạc báo biển lặng”, cá thu từng đoàn rẽ sóng “như đoàn thoi”,….
– “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”: Lời mời gọi tha thiết với thán từ gọi đáp “ơi” bộc lộ tình cảm chân thành của người lao động.

d. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật.

– Lời thơ kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự cùng việc sử dụng có ý đồ các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, so sánh, liệt kê đã tạo nên một khúc nhạc lao động vừa gần gũi vừa dạt dào sức sống.
– Hai khổ thơ mở ra trước ta hình ảnh của một miền biển tươi đẹp, bình yên, giàu có và những con người lạc quan, hết mình với công việc.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của hai khổ thơ.

II. Bài văn mẫu Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Chuẩn)

Tình yêu quê hương đất nước là một trong những đề tài gần gũi và là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp quê hương và bộc lộ niềm tự hào về người lao động trên chính quê hương mình.

Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Các tác phẩm của ông trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thường mang âm hưởng sầu não, buồn chán trước thực tại. Sau cách mạng, đặc biệt là những năm sau khi miền Bắc giành lại độc lập, thơ ông nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới. “Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, khi ông có một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai, Quảng Ninh. Hai khổ thơ đầu bài thơ, tác giả đã đưa người đọc đến với vùng thiên nhiên mang hơi thở cuộc sống: khủng cảnh ra khơi của người lao động trên biển.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.”

Tác giả đã kết hợp khéo léo các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, liệt kê để miêu tả vẻ đẹp của biển cả khi đêm về. “Mặt trời xuống biển” được ví như “hòn lửa”, một hình ảnh thật độc đáo. Dường như, ta đang thấy được mặt trời đang lặn dần vào lòng biển, giữa một khung cảnh rộng lớn, trên nền trời là sắc đỏ rực rỡ tựa hòn lửa đang bùng cháy. Cảnh vật như đang vận động theo thời gian, như guồng quay của tạo hoá. Vũ trụ lúc này đây như một ngôi nhà lớn, bóng tối dần bao phủ toàn bộ không gian, những con sóng cũng bắt đầu “cài then”, đóng cánh cửa khổng lồ của biển cả. Thiên nhiên chìm vào giấc ngủ, một ngày dài đã khép lại, tất cả đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi, nhường chỗ cho những hoạt động của con người:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Khi mặt trời đi ngủ, sóng cài then, đêm mở cửa cũng là lúc người dân chài bước vào hành trình lao động của mình. Từ “lại” được sử dụng trong câu để diễn tả công việc ra khơi đều đặn, quen thuộc của người lao động nơi đây. Nó trở thành một nếp sinh hoạt thường xuyên của người lao động. Đoàn thuyền ra khơi trong niềm háo hức, mong đợi.

Câu hát cất lên gửi gắm niềm tin, hy vọng vào một chuyến đi bội thu trở về. Tiếng hát khỏe khoắn ấy làm căng buồm, đưa con thuyền đi phăng phăng, vượt sóng, vượt gió của biển cả để rẽ sóng, dò bụng biển. “Cánh buồm no gió” còn là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần vui vẻ, nhiệt huyết của người lao động khi bắt đầu cuộc hành trình. Có thể thấy, sự kết hợp các hình ảnh “đoàn thuyền”, “câu hát”, “buồm”, “gió” cùng với nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp trong khổ thơ đầu đã tạo nên một cảnh tượng ra khơi đầy hào hùng, vừa đẹp, vừa tráng lệ biết bao!

Hành trình đánh bắt được bắt đầu bằng những bài ca gọi cá. Tiếng hát hòa cùng với công việc của người dân chài miền biển :

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.”

Câu hát không chỉ gửi gắm niềm mong mỏi vào một chuyến đi đầy tôm cá mà còn ngợi ca sự giàu có, phong phú của mẹ thiên nhiên. Cá bạc báo biển lặng, cá thu từng đoàn rẽ sóng “như đoàn thoi”. Vẻ đẹp lung linh của những loài cá trong làn nước biển mênh mông cùng ánh vành, ánh bạc hiện lên thật đẹp, ngỡ là chốn diệu kì của cuộc sống. Bút pháp lãng mạn kết hợp với phép liệt kê, so sánh tạo nên một cảnh biển đêm vừa thực, vừa mộng.

“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!”

Cảnh đánh cá trong đêm giữa biển khơi quá cái nhìn đầy tinh tế của tác giả thật độc đáo. Cách liên tưởng thú vị từ khung cửi dệt vải đến việc mời gọi đàn cá dệt biển, dệt lưới làm cho câu thơ thêm phần mới lạ, cảnh vật trở nên gần gũi với con người hơn bao giờ hết.

“Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Lời mời gọi tha thiết với thán từ gọi đáp “ơi” bộc lộ tình cảm chân thành của người lao động. Một tiếng gọi ân tình để thu cá vào lưới, đáp đền những lao động hăng say mệt nhọc. Nghề chài lưới vất vả, nhọc nhằn là vậy, mà trong âm điệu, lời thơ, ta không thấy mảy may một chút mệt mỏi hay lời than vãn của người dân chài mà trái lại là niềm vui, sự hăng say trong công việc của họ. Những câu hát mang theo mong mỏi, niềm tin, ngợi ca và sự tự hào của thế vàng vọng vào biển cả, nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ dân chài miền biển.

Lời thơ kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự cùng việc sử dụng có ý đồ các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, so sánh, liệt kê đã tạo nên một khúc nhạc lao động vừa gần gũi vừa dạt dào sức sống. Hai khổ thơ mở ra trước ta hình ảnh của một miền biển tươi đẹp, bình yên, giàu có và những con người lạc quan, hết mình với công việc. Đoạn thơ nói riêng và tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá nói chung đã góp phần vào tổ điểm hương sắc cho vườn thơ ca ngợi quê hương, Tổ Quốc Việt.

——————-HẾT———————-

Bên cạnh bài Phân tích hai khổ đầu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, tìm hiểu thêm những đặc sắc của bài thơ, các em không nên bỏ qua những bài văn mẫu đặc sắc khác như: Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Đóng vai ngư dân kể lại bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Suy nghĩ của em về nhận định: Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca của người lao động trên biển.

Bản quyền bài viết thuộc trường trung học phổ thông Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận.
Nguồn chia sẻ: Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn)

Nguyễn Thị Hương Thủy

Cô giáo Nguyễn Thị Hương Thủy tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội và hiện đang tham gia giảng dạy môn Ngữ Văn tại trường THPT Chu Văn An. Cô có 20 năm kinh nghiệm giảng dạy, dẫn dắt nhiều thế hệ học sinh đạt những thành tích cao và đặt chân vào các trường đại học danh tiếng. Cô gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp: giải Nhì trong cuộc thi giáo viên giỏi do thành phố Hà Nội tổ chức, tham gia giảng dạy đội tuyển Học sinh giỏi Quốc gia.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button