Đề bài: Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
I. Dàn ý Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
1. Mở bài
– Sơ lược về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và phong cách sáng tác của ông.
– Dẫn vào bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
2. Thân bài
a. Phần 1 “Em Cu Tai…vung chày lún sân”:
– Hình ảnh người mẹ giã gạo nuôi bộ đội thể hiện sức mạnh phi thường, nỗi vất vả của người phụ nữ trong chiến đấu, họ buộc phải trở nên mạnh mẽ kiên cường để trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.
– Dẫu rằng công việc có vất vả, nhưng người mẹ vẫn muốn mang theo đứa con, muốn được gần gũi chăm nom con, thế nên giấc ngủ của em Cu Tai không êm đềm mà chập chờn, nghiêng theo nhịp chày khua.
– Em dường như thấu hiểu nỗi vất vả của mẹ thông qua những giọt mồ hôi nóng hổi rơi trên má, thấu hiểu tình yêu thương của mẹ dành cho em, cho em một giấc ngủ với đôi vai làm gối, lưng làm nôi còn nhịp tim yêu thương làm lời ru ngọt ngào để em được yên giấc.
b. Phần 2 “Em Cu Tai…phát mười Ka-lưi”:
– Người mẹ Tà-ôi cùng đứa con còn xuất hiện trong những ngày tăng gia sản xuất ở chiến khu, và trước đó nếu em theo mẹ giã gạo, thì giờ đây em lại theo mẹ lên núi để “trỉa bắp”.
– Hình ảnh so sánh “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” làm nổi bật tầm vóc người phụ nữ Tà-ôi, trong những trách nhiệm to lớn, phục vụ cách mạng.
– “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi/Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”, hình ảnh ẩn dụ sâu sắc, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, con chính là ánh sáng soi đường, là niềm tin là động lực để mẹ lao động chiến đấu.
c. Phần còn lại:
– Không chỉ làm công việc hậu phương mà người mẹ còn bước thẳng ra chiến trường tham gia vào công cuộc chiến đấu đầu gian khổ và nguy hiểm trong không khí sôi nổi, người người nhà nhà ra trận.
– “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”: Niềm tin về một chiến thắng không xa, về một đất nước hòa bình độc lập mạnh mẽ và sâu sắc trong trái người mẹ.
– Khuynh hướng sử thi của thời đại đã hiện lên một cách rõ ràng thông qua hình tượng người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến đấu, bất chấp gian khó, đại diện cho hàng triệu con người trong công cuộc giải phóng đất nước với tình yêu thương gia đình, mở rộng ra là tình yêu thương quê hương đất nước.
– Tình mẫu tử thiêng thiêng với ước mơ “Mai sau con lớn làm người Tự Do” là nguồn động lực to lớn, là cơ sở cho tất cả những phấn đấu và nỗ lực của người mẹ trong chiến đấu.
3. Kết bài
– Nêu cảm nhận cá nhân.
II. Bài văn mẫuPhân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
1. Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mẫu số 1 (Chuẩn):
Từ xa xưa, tình mẫu tử đã trở thành đề tài quen thuộc của văn học, là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận của các nhà văn, nhà thơ. Trong kho tàng văn học Việt Nam, nhắc đến tác phẩm viết về tình cảm thiêng liêng cao đẹp này không thể không nhắc tới bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm. Bài thơ là lời tâm tình tha thiết của người mẹ Tà – ôi. Qua đó bộc lộ tình yêu thương sâu sắc của mẹ dành cho con, tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu vùng chiến khu Trị Thiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhiều gian khổ.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” ra đời vào năm 1971, ngay trong những năm tháng quyết liệt của kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ không những là tác phẩm tiêu biểu trong tập “Đất và khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm mà còn là lời ru đầy ngọt ngào, da diết dành cho những em bé lớn lên trên lưng mẹ. Những lời ru chan chứa tình thương ấy đã mở ra một không gian mới đậm đà bản sắc của người Tà – ôi. Mở đầu bằng lời ru nhịp nhàng yêu thương của mẹ:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Không giống như những đứa trẻ khác, những em bé Tà – ôi nằm ngủ trong tấm nôi địu trên lưng mẹ. Câu thơ cất lên lời hát thân thương vỗ về lại như lời tâm tình nhắn nhủ âu yếm, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng để mẹ yên tâm lao động sản xuất, phục vụ sự nghiệp chiến đấu đang giai đoạn nước sôi lửa bỏng:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng.
Nhà thơ vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh tuyệt đẹp và đầy cảm động. Nhịp thơ 3/4 nhẹ nhàng đều đều giống như nhịp ru à ơi trên cánh võng nhỏ, tạo cảm giác ngọt ngào tha thiết. Từ “nghiêng” được điệp lại 2 lần trong cùng 1 câu tái hiện chân thực hình ảnh người mẹ vừa giã gạo vừa địu con. Hiện thực cuộc chiến nhiều khó khăn gian khổ, mẹ yêu quê hương nên tham gia phục vụ kháng chiến, giã gạo để nuôi các chú bộ đội.
Thế nhưng, tình yêu mẹ dành cho con chưa bao giờ vơi bớt, ngay trong hoàn cảnh ấy, mẹ vẫn yêu thương con da diết. Nỗi vất vả nhọc nhằn hiện lên ở cả mẹ và con :
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Người phụ nữ vốn chân yếu tay mềm, công việc giã gạo lại không hề nhẹ nhàng như dệt vải may áo. Người mẹ Tà – ôi vừa địu con trên lưng vừa chăm chú giã gạo, sự mệt nhọc lan tỏa từ mẹ sang con. Hình ảnh “mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi” là hình ảnh biểu cảm đầy ấn tượng. Dù bị ảnh hưởng bởi nỗi mệt nhọc của mẹ, em bé vẫn được mẹ chở che bù đắp. Giấc ngủ say nồng của em được mẹ nâng niu bằng đôi “vai gầy”, bằng “lưng đưa nôi” và lời ru cất lên từ trái tim chan chứa thương yêu.
Trong mọi thời điểm, dù mẹ làm việc gì, tình yêu bao la ấy vẫn vẹn nguyên đầy thiêng liêng, xúc động. Ngay cả những ngày leo đèo tỉa bắp, trái tim bao dung của mẹ vẫn dịu dàng ngân vang khúc hát ru cho a – kay, bởi vì em chính là nguồn sống, là động lực mạnh mẽ của mẹ:
Mặt trời của bắp thì nằm trên núi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.
Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo lồng ghép hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” mang lại những rung động sâu sắc, ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp. Mặt trời của bắp rạng rỡ ánh dương trên núi cao. Mặt trời của mẹ lại chính là con. Con là mặt trời tỏa nắng, soi rọi và sưởi ấm trái tim mẹ, là hạnh phúc là cội nguồn sự sống và sức mạnh của mẹ. Bắp lớn lên nhờ ánh sáng mặt trời tự nhiên. Mẹ sống và chiến đấu vì mặt trời trên lưng – con yêu của mẹ.
Khúc hát ru vẫn nhịp nhàng đầy da diết, tình yêu của người mẹ Tà – ôi tiếp tục lắng sâu trong những mơ ước nhỏ nhoi gửi gắm. Từng lời thơ, từng nhịp ngắt nghỉ đều giúp chúng ta cảm nhận được sự dịu dàng bao la của tấm lòng người mẹ:
Ngủ ngoan a-kay ơi
Ngủ ngoan a-kay hỡi
Những lời ru được nhắc đi nhắc lại trong da diết như một điệp khúc yêu thương:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian nan, khốc liệt. Điểm tựa của mẹ chính là con. Dù nhỏ bé, dù chưa thể cất tiếng thành lời, con vẫn là động lực giúp mẹ vượt mọi khó khăn, thử thách để sống, lao động và tham gia kháng chiến. Ước mong của mẹ giản đơn, mộc mạc nhưng vô cùng cao đẹp.
Mẹ mong con yêu bình an khôn lớn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh. Mai này có đủ sức mạnh “vung chày lún sân”, “phát mười Ka-lưi”. Con trong mơ ước của mẹ dường như thấp thoáng dáng hình sử thi của những người anh hùng trong thần thoại. Đồng thời cũng giống như hình ảnh quy tụ sức mạnh dân tộc từ ngàn đời xưa. Ước mơ của người mẹ Tà – ôi vừa chứa đựng mong muốn cho con một cuộc đời an bình, hạnh phúc vừa gửi gắm khát vọng tương lai thắng lợi của kháng chiến. Điều này được thể hiện vô cùng rõ ràng trong lời ru khép lại bài thơ:
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Yêu quê hương, mẹ ước mơ về một ngày thống nhất đất nước. Mẹ sinh ra trong đói nghèo, nô lệ, mẹ trưởng thành trong muôn vàn gian khổ chiến tranh, con lại là nguồn sống của mẹ. Vì thế ước vọng lớn nhất của mẹ là con được trở thành công dân của đất nước tự do thống nhất. Tình cảm ấy thật thiêng liêng, cảm động.
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu ngọt ngào vẫn còn ngân vang mãi. Nguyễn Khoa Điềm đã thành công xây dựng kết cấu bài theo khúc ru. Lời thơ như những lời ru ngọt ngào, giọng thơ tha thiết cùng nhiều từ gọi, từ xưng hô trìu mến (ơi, hỡi) và nhịp thơ chầm chậm. Ngoài ra tác giả kết hợp nhuần nhuyễn bút pháp miêu tả và biểu cảm, sử dụng khéo lẽ nhiều hình ảnh thơ đẹp, giàu sức biểu cảm. Từ đó tái hiện chân thực hiện thực sống và chiến đấu gian khổ của đồng bào dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt, bài thơ thể hiện sâu sắc tình yêu thương con và ngợi ca vẻ đẹp của những người mẹ Tà – ôi, gắn bó và tình nguyện hi sinh để đóng góp chung vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Với những thành công ấy, bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” đã trở thành tác phẩm tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến. Những ngọt ngào yêu thương trong bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim người đọc.
2.Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mẫu số 2 (Chuẩn):
Thơ văn Nguyễn Khoa Điềm mang khuynh hướng triết luận trữ tình sâu sắc kết hợp với nguồn chất liệu văn hóa dân gian dồi dào của dân tộc, ông có mặt xuyên suốt và là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành thông qua cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy máu và lửa dân tộc. Thời đại có nhiều biến động đã gợi ra trong tác giả 2 nguồn cảm hứng chính trong sáng tác ấy là hình tượng đất nước và hình tượng nhân dân anh hùng trong chiến đấu, kết hợp tinh tế giữa những vang động lớn lao của thời đại với những rung động tinh tế trong tâm hồn của con người để tạo ra những áng thơ tuy không rực lửa nhưng lại mang những cảm xúc ấm áp, sưởi ấm cho nhiều thế hệ con người. Ngoài giọng thơ chính luận đem đời sống chính trị vào thơ một cách hùng hồn, ngắn gọn xúc tích thì Nguyễn Khoa Điềm còn đặc biệt có một giọng thơ trữ tình sâu sắc, thiết tha nồng đượm khi viết về những tình cảm trú ngụ trong tâm hồn con người. Đặc biệt là với tình mẫu tử thiêng liêng cao cả trong thời chiến, ông đã khéo léo dùng một giọng thơ mang âm hưởng lời du ngọt ngào, thủ thỉ tâm tình như chính nỗi lòng của người mẹ, điều ấy thể hiện rất rõ thông qua bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được sáng tác vào năm 1971, khi tác giả tham gia chiến đấu tại chiến trường phía Tây khu Thừa Thiên. Bằng những trải nghiệm chân thực và trực tiếp chứng kiến quá trình chiến đấu anh hùng của những người mẹ Tà-ôi trong kháng chiến, Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết ra những vần thơ mang âm hưởng lời ru tha thiết vừa để ca ngợi tình mẫu tử rất đỗi thiêng liêng sâu sắc, cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiên cường của người phụ nữ Tà-ôi cũng như toàn dân tộc trong những năm tháng chiến tranh vô cùng ác liệt.
Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh người mẹ dân tộc địu đứa con nhỏ trên lưng trong mọi công việc, mọi giai đoạn cùng nhau vượt qua bao gian khổ của cuộc sống và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó khăng khít và sâu nặng của tình mẹ con. Hai câu thơ “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.” cứ trở đi trở lại trong cả bài thơ tựa như lời dặn dò đầy yêu thương, trìu mến của người mẹ dành cho đứa con bé nhỏ, đang chập chờn trong giấc ngủ, mẹ chịu vất vả, con cũng phải buôn ba theo mẹ bất kể nắng mưa. Giấc ngủ của em cu Tai chính là giấc ngủ của nhiều những em bé Tà-ôi khác và cuộc đời của mẹ cũng chính là cuộc đời của nhiều người phụ nữ Tà-ôi trong kháng chiến còn nhiều khó khăn. Chính bởi tấm lòng mẹ thương con sâu sắc, nên mẹ chẳng dám, cũng chẳng muốn xa con một giây phút nào, lưng mẹ địu con, tay mẹ lao động, để lúc nào mẹ cũng được gần con mà yên tâm chiến đấu vì tương lai của đất nước, cũng là vì tương lai của đứa con thơ.
“Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi hiện ra thật chân thực trong hình ảnh lao động vô cùng vất vả “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”, đôi tay của người mẹ tuy nhỏ bé nhưng chứa đựng sức mạnh thật phi thường, trong một góc sân nhỏ, từng hạt gạo trắng ngần được bàn tay mẹ làm ra từ những nhịp chày nghiêng nghiêng, mà có lẽ con là người cảm nhận rõ nhất. Những hạt gạo ấy không chỉ để nuôi sống mẹ, nuôi sống con, nuôi sống gia đình mà quan trọng hơn cả đó là những hạt gạo quý giá để nuôi sống bộ đội, nuôi sống cách mạng Việt Nam. Sự vất vả của mẹ dường như cũng đi sâu vào tiềm thức con thông qua những giọt mồ hôi mặn chát nóng hổi, thông qua những lần bóng lưng mẹ nghiêng khiến giấc ngủ em chập chờn. Dẫu rằng tấm lưng mẹ gầy guộc đơn sơ, chẳng được êm đềm, vững chãi như những chiếc nôi, chiếc giường mềm mại, thế nhưng dường như chỉ có ở trên lưng mẹ em mới thực sự có một giấc ngủ ngon lành, bởi đã có bờ vai mẹ thay gối, tấm lưng mẹ thành nôi và trái tim mẹ rộn ràng sau những lần vung chày mạnh mẽ làm thành lời ru ngọt ngào, êm ái đưa em vào giấc ngủ dịu êm. Từ những hình ảnh, bình dị và thân thuộc trong cuộc sống lao động của người mẹ dân tộc ta cảm nhận được tấm lòng cao cả của người mẹ dành cho đất nước, mẹ hy sinh biết bao mồ hôi công sức, mệt nhoài trong những lần gia gạo, nhưng chưa bao giờ mẹ từ bỏ, mẹ đã trở thành hậu phương đóng góp một phần công sức của mình để làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cũng như bao chiến sĩ ngoài kia thì ở đây mẹ cùng con cũng phấn đấu hết mình trong lao động, chiến đấu trong âm thầm lặng lẽ, bên góc sân nhà với vũ khí là cối cùng chày để mong một ngày đất nước được tự do.
Không chỉ nằm trong khuôn khổ góc sân cùng với công việc giã gạo, mà người mẹ Tà-ôi cùng đứa con còn xuất hiện trong những ngày tăng gia sản xuất ở chiến khu, và trước đó nếu em theo mẹ giã gạo, thì giờ đây em lại theo mẹ lên núi để “trỉa bắp”.
“Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka–lưi
Lưng núi thì to, mà lưng mẹ nhỏ,
Em ngủ ngoan em, đừng làm mẹ mỏi.
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.”
Nếu so với việc địu em giã gạo, thì việc “trỉa bắp” trên núi cao lại càng khiến mẹ vất vả hơn rất nhiều, đôi tay mẹ gieo từng hạt bắp, đôi chân mẹ lần từng bước đi, lưng mẹ cõng em, còn bóng mẹ hứng ánh nắng gay gắt từ mặt trời và dĩ nhiên em cu Tai cũng chẳng được giấc ngủ êm đềm, mát mẻ. Người mẹ Tà-ôi thương cho đứa con bé bỏng, lòng vẫn luôn nặng một lời ru “Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi”, mẹ mong em Cu-Tai cũng thấu hiểu được nỗi vất vả của mẹ ngày hôm nay mà bằng lòng yên giấc, để mẹ được yên tâm lao động. Trong khổ thơ này Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều thủ pháp nghệ thuật quen thuộc như so sánh và ẩn dụ để làm lời thơ vừa uyển chuyển vừa thêm phần ý nghĩa dưới những câu chữ rất đỗi đơn giản, mộc mạc. Nhà thơ đã khéo léo so sánh giữa hai hình tượng “Lưng núi thì to” và “lưng mẹ nhỏ” để làm nổi bật vẻ đẹp vĩ đại của con người trước thiên nhiên, cũng như tầm vóc của người mẹ Tà-ôi trong lao động sản xuất, trong trách nhiệm với đất nước với dân tộc. Tấm lưng của núi ấy dẫu cóc to có rộng cũng chỉ gánh được một vùng trời, còn tấm lưng của mẹ tuy nhỏ nhắn gầy guộc nhưng lại mang vác biết bao trách nhiệm nặng nề, dường như chẳng hề tương xứng, trên lưng mẹ có giấc mơ của con, có trách nhiệm nuôi sống cả gia đình và quan trọng hơn cả đó là trách nhiệm làm hậu phương vững chắc, tích cực lao động sản xuất để nuôi cán bộ, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng, vì tương lai một ngày không xa đất nước được hòa bình tự do. Không chỉ là tình cảm phấn đấu hy sinh vì cách mạng mà tâm hồn của người mẹ còn trở nên sáng ngời vì tình mẫu tử thiêng liêng. Đối với cây bắp non chờ ngày đơm bông kết quả thì mặt trời chính là nguồn sống, nguồn dinh dưỡng quan trọng bậc nhất không thể thay thế, thì đối với mẹ em cu Tai đang say giấc nồng lại chính là mặt trời đầy yêu thương mà mẹ hết lòng trân quý. Em không chỉ tiếp thêm sức mạnh cho lao động sản xuất mà em còn chính là ánh sáng dẫn lối cho mẹ trong những năm tháng mờ mịt vì bom đạn giặc thù, em để mẹ hiểu rõ rằng chỉ có làm cách mạng, chỉ có chiến đấu vì đất nước thì tình yêu thương của mẹ đối với em mới là trọn vẹn, mẹ phải cố gắng dành cho em một đất nước tươi đẹp, tự do và độc lập để em được sống những ngày an yên nhất. Phải nói rằng trong tất cả các loại tình cảm trên thế gian có lẽ chẳng có loại nào vừa thiêng liêng, vừa cao cả, vừa bao dung và dịu dàng hơn tình mẹ nữa.
Người mẹ Tà-ôi đâu chỉ kiên cường, mạnh mẽ trong lao động sản xuất mà bước chân mẹ đã chuyển từ góc sân, từ quả núi ra đến tận chiến trường mưa bom, bão đạn. Mẹ không còn là hậu phương âm thầm, lặng lẽ mà giờ đây người phụ nữ chân yếu tay mềm thế mà cũng trở thành một người lính thực thụ, trực tiếp tham gia vào chiến đấu, đặc biệt hơn cả trên lưng mẹ, em cu Tai vẫn luôn theo sát một bước chẳng rời, gắn bó chặt chẽ vô cùng.
“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để giành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”
Công việc của mẹ đã không còn là giã gạo hay tỉa bắp mà thay vào đó là công việc vất vả cực nhọc hơn gấp bội phần, không chỉ mệt mà mẹ còn phải đối mặt với biết bao nguy hiểm đang rình rập trong lúc “chuyển lán”, “đạp rừng”. Trong khí thế hào hùng sôi nổi của cách mạng, trong lúc trận chiến bước vào thời kỳ cam go quyết liệt nhất, khi giặc thù đã “đuổi ta phải rời con suối”, biết bao đồng bào “anh trai cầm súng, chị gái cầm chồng”, thì chính bản thân mẹ và em cũng hòa mình vào cuộc đấu tranh. “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”, với một niềm tin vững chắc rằng không lâu nữa đất nước lại hòa bình, và với mỗi trận chiến mẹ cũng như đồng bào đều dồn hết ý chí và sức mạnh giống như hôm nay là “trận cuối” với niềm hy vọng toàn thắng. Dĩ nhiên rằng trong những lúc cam go, khốc liệt như vậy mẹ lại càng muốn được gần em, muốn bảo vệ em trong vòng tay yêu thương của mình, em cứ thế nằm trong giấc ngủ đến chiến trường ác liệt, trải qua biết bao đói khổ trên con đường Trường Sơn đỏ đất anh hùng. Phải nói rằng, đến đoạn thơ này ngoài cảm hứng lãng mạn dẫn dắt ý thơ, thì khuynh hướng sử thi của thời đại đã hiện lên một cách rõ ràng thông qua hình tượng người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến đấu, bất chấp gian khó, đại diện cho hàng triệu con người trong công cuộc giải phóng đất nước với tình yêu thương gia đình, mở rộng ra là tình yêu thương quê hương đất nước, căm thù giặc Mỹ đến tận xương tủy. Từ trong những lời ru tha thiết của mẹ, ta có thể nhận ra tấm lòng yêu thương đứa con nhỏ tha thiết, sâu nặng, mẹ chấp nhận hy sinh tất cả, đánh đổi sức khỏe, tính mạng để tham gia phục vụ chiến đấu, phục vụ cách mạng, trước hết vẫn là vì đứa con thơ dại, mẹ mong “Mai sau con lớn làm người Tự Do”, kết hợp với tấm lòng yêu nước, yêu đồng bào vốn đã ngự trị sẵn trong tâm hồn của mỗi một người dân đã làm nên một người mẹ anh hùng, kiên cường, bất khuất trong chiến đấu, trái tim, tấm lòng luôn sáng đẹp lý tưởng cách mạng và tình mẫu tử thiêng liêng, tha thiết.
Bằng giọng thơ mang âm hưởng lời ru tha thiết, ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng chứa nhiều cảm xúc, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến một hình ảnh người mẹ Tà-ôi rất đẹp, rất vĩ đại với tình cảm mẹ con bao trùm cả tác phẩm, cùng với tình yêu quê hương đất nước nồng nàn. Đồng thời thể hiện tầm vóc con người trong những năm kháng chiến chống Mỹ, người mẹ Tà-ôi chính là đại diện cho hàng triệu những con người khác đã góp một phần công sức vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để làm nên thắng lợi vẻ vang của đất nước, mà ở đó nổi bật lên những tình cảm vô cùng cao quý, tình cảm gia đình, tình cảm với đất nước, nhân dân thiết tha sâu nặng.
3.Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mẫu số 3:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong số ít những người vừa là nhà chính trị, vừa là một nhà thơ lớn của Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường đi từ những cái mộc mạc, gần gũi của quê hương, đất nước, ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của con người bằng một giọng thơ rất đỗi suy tư và nồng nàn. Một trong những tác phẩm khá nổi tiếng của ông đó là bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Bài thơ xoay quanh hình ảnh người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng cùng tham gia góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, qua đó thể hiện được tình mẫu tử thật thiêng liêng cùng với sự kiên cường mạnh mẽ của người mẹ Tà-ôi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung trong những năm tháng đất nước còn chìm trong bom đạn chiến tranh.
Từ những câu thơ đầu tiên ta đã thấy được tình yêu thương thật tha thiết dịu dàng của mẹ dành cho con. “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”, hai câu thơ này lần lượt trở đi trở lại trong suốt bài thơ. Ta nghe tưởng như người mẹ đang vỗ về, an ủi đứa con phải vất vả buôn ba theo mẹ, chịu nắng chịu mưa. Lòng mẹ thương con, nhưng cũng không muốn phải xa con, mẹ muốn con được theo sát bên mẹ, trong tầm mắt của mẹ, để mẹ có thể yên lòng mà lao động, sản xuất, chiến đấu.
Mẹ như tâm tình với con bằng một giọng rất đỗi dịu dàng, trìu mến, lại như giảng giải “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Như vậy hạt gạo trắng ngần mà mẹ mất bao công sức làm ra, đôi tay vung chày mỏi rệu rã, là để dành nuôi sống gia đình và ý nghĩa hơn nữa là những hạt gạo ấy còn để dành phần lớn nuôi bộ đội, nuôi cách mạng nay đã sắp đến ngày thành công. Rồi mai đây đất nước thanh bình, mẹ và con sẽ chẳng còn phải vất vả nhiều thế nữa. Như vậy dẫu cho ngày hôm nay “Giọt mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”, em phải ngủ trên lưng mẹ với giấc ngủ nghiêng theo nhịp chày cũng là xứng đáng. Tuy người mẹ Tà-ôi không thể cho đứa con mình một giấc ngủ được yên lặng, sung sướng, nhưng dường như tất cả những tình cảm yêu thương của người mẹ đã bù đắp lại điều ấy. Bởi em cu Tai đã có tấm lưng gầy của mẹ làm gối, tấm lưng mỏng của mẹ làm nôi và hơn tất cả trái tim của mẹ, tình yêu của mẹ dường như đã biến thành bài hát để ru em ngủ. Em ngủ thật ngoan trong tình yêu của mẹ. Và trong những lúc lao động vất vả như thế, trong từng nhịp chày, người mẹ lại nghĩ đến đứa con yêu dấu của mình, nghĩ đế bộ đội đang ngày đêm vất vả, mẹ lại càng mong con thật mau lớn khỏe mạnh “vung chày lún sân”, rồi mong cho thóc gạo thật nhiều để giúp cho bộ đội có cái ăn mà chiến đấu.
Người mẹ Tà ôi không chỉ làm hậu phương, vung chày giã gạo trong sân nhà, mà còn lên đồi, lên nương tỉa bắp, để tăng gia sản xuất góp phần cung cấp lương thực cho cuộc kháng chiến đang hồi gấp rút. Những hình ảnh sóng đôi mà Nguyễn Khoa Điềm đưa vào bài thơ thật độc đáo, góp phần nâng tầm vóc của người mẹ lên sánh vai cùng với thiên nhiên “Lưng núi thì to còn lưng mẹ nhỏ”. Đúng vậy tấm lưng mẹ vừa gầy guộc, lại vừa nhỏ bé nhưng nó gánh trên lưng bao nỗi vất vả, bao trách nhiệm vậy thì sánh với núi mẹ dường như cũng ngang bằng hoặc thậm chí còn có tầm vóc lớn hơn. Rồi hình ảnh “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi/Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”, lại càng đặc sắc hơn cả, người mẹ xem đứa con chính là mặt trời của bản thân, là nguồn sống, là động lực to lớn hơn cả. Mẹ có làm lụng có vất vả, cực nhọc đến đâu thì chỉ cần nhìn con là mẹ lại như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh. Và trong lời ru trực tiếp thật tha thiết của người mẹ Tà-ôi, thì tình yêu thương con, yêu thương ngôi làng đói khổ lại càng thêm sâu sắc, cứ mỗi niềm thương ấy thì mẹ lại càng thêm mong mỏi cho con mau khôn lớn, mạnh khỏe để “phát mười K’lưi”.
Đến khúc ru thứ ba, hình ảnh người mẹ trở nên ấn tượng hơn cả, người mẹ Tà-ôi không còn loanh quanh nơi góc sân nhà giã gạo, không còn còng lưng tỉa bắp trên đồi. Mà giờ đây mẹ còn mạnh mẽ hơn, mẹ bước từ hậu phương mẹ ra tiền tuyến, mẹ trực tiếp tham gia vào trận chiến. Bởi lẽ kháng chiến giờ đây đã gần đến thắng lợi sau cùng, tất cả gìa, trẻ, gái, trai đều xung phong đi chiến đấu. Mẹ cũng vậy, mẹ cũng ra chiến trường, tham gia vào những công việc cực nhọc gấp trăm lần như chuyển lán, đạp rừng gian khổ biết bao nhiêu. Nhưng trong trái tim người mẹ Tà-ôi ấy tràn đầy niềm tin chiến thắng “Mẹ địu con đi để giành trận cuối”, tin tưởng trận này nữa thôi đất nước sẽ lại hòa bình, tự do. Trong suốt quá trình chiến đấu ấy, ta phát hiện ra rằng em cu Tai vẫn cứ nằm trên lưng mẹ, em cùng mẹ ra vào chiến trường, cùng mẹ băng núi vượt rừng, chứng kiến tất cả những gian truân vất vả mà mẹ em đã trải qua. “Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường/Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”, hai câu thơ đã chứng minh cho tình cảm mẹ con thật gắn bó, khăng khít, hai mẹ con luôn luôn đồng hành cùng nhau trong mỗi chặng đường dù là gian lao, vất vả, nắng mưa, nhọc nhằn. Và sau những gian lao, vất vả ấy, cuối cùng mong mỏi lớn nhất của mẹ chính là mong sao con được làm người tự do, mong sao đất nước Việt Nam sớm ngày được độc lập.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là một bài thơ hay và đặc sắc, với giọng thơ mang âm hưởng lời ru của đồng bào Ê-đê, lời ru rất đỗi dịu dàng, thắm thiết vừa chân thành, lại vừa mộc mạc. Điều đó đã góp phần thể hiện được hình ảnh người mẹ Tà-ôi anh hùng, vừa kiên cường, vừa mạnh mẽ, chịu thương chịu khó, là đại diện cho hình ảnh những người mẹ Việt Nam anh hùng. Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương con tha thiết, là tình mẫu tử thật thiêng liêng, sâu xa hơn đó là tấm lòng yêu quê hương đất nước thật nồng nàn, mong muốn một cuộc sống tự do cho con, cho cả dân tộc Việt Nam.
——————HẾT——————
Là một trong số những tác phẩm nổi bật trong ngữ văn lớp 9 bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã để lại rất nhiều những kiến thức bổ ích cho các bạn học sinh. Bên cạnh bài làm văn Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, học sinh và thầy cô đều có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu khác như Cảm nghĩ về bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, Cảm nhận đoạn thơ sau trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ: “Em Cu Tai… nằm trên lưng”, Phân tích giá trị biểu cảm của những câu thơ sau: “Mẹ đang tỉa bắp … em nằm trên lưng”, Phân tích bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ để chứng minh ý kiến sau đây, hay những phần Soạn bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.